Trần Văn Độ, Nguyễn Mai Bộ, tạp chí TAND số 15/2010. Thực trạng thi hành các quy định của BLTTHS về tái thẩm có trong các bài viết: “Thực trạng thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trượng, tạp chí TAND số 20/2010; “Những khó khăn, vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết các trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao” của tác giả Phạm Văn An, tạp chí Kiểm sát, số 5 năm 2012.
Những thay đổi về quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình tiến hành cải cách tư pháp cũng được đề cập như bài: “Thay đổi trong quan điểm chỉ đạo của Đảng về tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự” của tác giả Phạm Văn An, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16 năm 2011.
Những nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau có nội dung liên quan đến tái thẩm hoặc đề cập đến một vấn đề nào đó của tái thẩm trong TTHS như luận án tiến sĩ luật học“Giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2007 của tác giả Phan Thị Thanh Mai, Đại học Luật Hà Nội; luận án tiến sĩ luật học “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng hình sự” năm 2009 của tác giả Vũ Gia Lâm, Đại học Luật Hà Nội; đề tài “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” năm 2003 của VKSNDTC do tác giả Lê Hữu Thể chủ nhiệm đề tài; đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự” của TANDTC năm 2005 do tác giả Đinh Văn Quế chủ nhiệm đề tài.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý tại một số các quốc gia điển hình cho thấy cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục tái thẩm và thực trạng pháp luật của các quốc gia về thủ tục tái thẩm. Các nghiên cứu về thủ tục tái thẩm được đề cập trên những khía cạnh sau: 1) Cơ sở lý luận của việc xem xét lại tính đúng đắn của các bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL khi TTHS thừa nhận nguyên tắc bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện; 2) Sai lầm về áp dụng pháp luật và sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định có HLPL của Toà án giải quyết chung một thủ tục hay bởi các thủ tục tố tụng khác
nhau và cơ sở lý luận để đưa ra phương án giải quyết; 3) Việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án về sự việc chỉ được đặt ra khi có lợi cho người bị kết án hay theo cả hướng không có lợi; 4) Căn cứ khẳng định có sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định đã có HLPL của Toà án là tình tiết mới được phát hiện thể hiện cụ thể như thế nào, sự khác nhau về bản chất với căn cứ vi phạm về áp dụng pháp luật;
5) Thẩm quyền của Toà án khi xét lại bản án, quyết định trong trường hợp này cần quy định thế nào để bảo đảm quyền của người bị kết án oan sai và công bằng xã hội.
Các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến nội dung luận án được tác giả tìm hiểu bao gồm:
Có thể bạn quan tâm!
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 1
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 2
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Và Những Vấn Đề Tập Trung Nghiên Cứu Trong Luận Án
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 5
- Ý Nghĩa Của Tái Thẩm Trong Tố Tụng Hình Sự
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
1.2.1. Les voies de recours en matière pénale - Essai d’une théorie générale, Thèse, Maud Orillard Léna, Université Paris II, 2007 [117]. (Kháng cáo, kháng nghị trong lĩnh vực hình sự - Nghiên cứu lí luận chung, luận án tiến sĩ luật học, tác giả Maud Orillard Léna tại trường Đại học Paris II, năm 2007).
Nghiên cứu xác định bản án, quyết định đã có HLPL có thể sai lầm về áp dụng pháp luật hoặc sai lầm về sự việc. Tùy theo truyền thống pháp lí, các quốc gia có các giải pháp khác nhau để khắc phục những sai lầm về sự việc trong các bản án, quyết định có HLPL của Toà án. So sánh pháp luật một số các quốc gia, tác giả chỉ ra có ba hệ thống khác nhau giải quyết sai lầm về sự việc trong bản án có HLPL. Hệ thống thứ nhất không động chạm đến HLPL của bản án, quyết định của Toà án, mà ưu tiên sử dụng chế định ân xá để khắc phục sai lầm, trong đó Hoa Kỳ là quốc gia điển hình. Giải pháp của hệ thống này được tác giả của công trình nghiên cứu đánh giá không hợp lí ở điểm vẫn để tồn tại trên thực tế bản án sai lầm. Hệ thống thứ hai thừa nhận thủ tục tái thẩm để khắc phục sai lầm về sự việc và áp dụng trong cả hai trường hợp sai lầm gây thiệt hại cho người bị kết án và sai lầm có lợi cho người bị kết án (Cộng hoà Liên bang Đức, Áo, Na Uy). Hệ thống thứ ba chỉ cho phép tái thẩm có lợi cho người bị kết án (in favorem) như các nước Canada, Tây Ban Nha, Italia, Cộng hoà Pháp. Theo khảo sát trong nghiên cứu, số lượng các quốc gia theo hệ thống này chiếm đa số.
Nghiên cứu khẳng định quyền kháng cáo, kháng nghị tái thẩm không được
quy định phổ biến. Tuy nhiên, các Toà án quốc tế ad hoc như Toà án La Haye, Toà án Arusha cũng như Toà án hình sự quốc tế đều ghi nhận khả năng tái thẩm, đặc biệt trong trường hợp có tình tiết mới. Các Toà án hình sự quốc tế ad hoc thừa nhận tái thẩm có lợi cũng như không có lợi cho người bị xét xử, nhưng thời hạn kháng cáo, kháng nghị tái thẩm khác nhau theo chủ thể kháng cáo, kháng nghị.
Nghiên cứu chỉ ra rằng Luật châu Âu về quyền con người quan tâm đến việc bồi thường cho người bị kết án oan sai hơn là quan tâm đến việc huỷ bản án thể hiện tại Điều 3 Nghị định thư số 7 của Công ước châu Âu về quyền con người. Tại Pháp, tái thẩm có lợi cho người bị kết án là truyền thống pháp lí nhân đạo, bắt nguồn từ luật La Mã. Khác với ân xá, tái thẩm thừa nhận công khai sai lầm tư pháp và trao cho Hội đồng tái thẩm thẩm quyền đưa ra phương thức giải quyết theo luật.
1.2.2. Procédure pénale, Etienne Vergès (2007), 2e éd., Litec, Paris [118].
(Tố tụng hình sự, tác giả Etienne Vergès, Nxb. Litec, Pari, 2007)
TTHS Cộng hoà Pháp thừa nhận bản án của Toà án đã có HLPL có thể bị xem xét lại bằng hai thủ tục khác nhau: giám đốc thẩm và tái thẩm. Nghiên cứu chỉ rò sự khác nhau giữa hai thủ tục này trong TTHS Cộng hoà Pháp.
Đối với giám đốc thẩm, căn cứ duy nhất là sự vi phạm pháp luật và nhấn mạnh Toà án giám đốc thẩm không phải Toà án xem xét lại về sự việc mà chỉ là Toà án xem xét lại về mặt pháp luật. Toà án giám đốc thẩm là Toà án bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật của các Toà án xét xử nội dung vụ án. Chức năng này của Toà án giám đốc thẩm chỉ có thể thực hiện được nếu đương sự kháng cáo bản án vi phạm pháp luật hoặc Viện công tố kháng nghị vì lợi ích pháp luật. Bản án của Toà án giám đốc thẩm không thể gây thiệt hại cho các đương sự. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm không phải là sự kết án đối với người được tuyên vô tội hoặc trái lại. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm là cho phép Toà án giám đốc thẩm công khai khắc phục sự áp dụng không đúng pháp luật, tránh lặp lại sai lầm và vì vậy giám đốc thẩm có thể xem xét một kháng nghị ngay cả khi tội phạm sẽ được một đạo luật ân xá.
Kháng cáo, kháng nghị tái thẩm là thủ tục đặc biệt thể hiện ở việc đặt lại vấn đề đối với bản án kết tội đã có HLPL về trọng tội hoặc khinh tội trong trường hợp
có tình tiết cho thấy sự kết tội dựa trên những căn cứ sai lầm. Tái thẩm là phương thức kháng cáo, kháng nghị có thể gọi là bổ sung, chỉ được yêu cầu nếu các phương thức kháng cáo, kháng nghị khác đã hết. Tái thẩm chỉ được yêu cầu theo hướng có lợi (in favorem) đối với bản án kết tội. Bản án tuyên vô tội không phải là đối tượng tái thẩm. Khi tái thẩm, việc huỷ bỏ bản án kết tội có thể kèm theo một vụ án mới. Đó là trường hợp tiến hành một cuộc tranh tụng mới (Điều 625 BLTTHS Cộng hoà Pháp). Tái thẩm là điểm khởi đầu cho một thủ tục tố tụng khác liên quan đến sự việc đã được xét xử. Vụ án được chuyển cho một Toà án xét xử về nội dung. Bản án của Toà án tái thẩm không thể bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khiếu nại. Nếu Toà án tái thẩm quyết định huỷ bản án và chuyển hồ sơ vụ án để xét xử lại thì Toà án thụ lí hồ sơ vụ án có toàn quyền kết án hoặc tuyên vô tội đối với người đã được tái thẩm. Nếu Toà án tái thẩm quyết định huỷ bản án để xét xử lại vì lí do làm chứng không đúng sự thật thì người làm chứng đã bị kết án về tội này không được làm chứng nữa trước Toà án thụ lí vụ án sau tái thẩm (Điều 622 BLTTHS Cộng hoà Pháp).
1.2.3.“Révision”, Répertoire de droit pénal et de procédure pénale, Étienne Daures, Editions Dalloz 2012 [115]. (Étienne Daures, “Tái thẩm”, Tuyển tập luật hình sự và luật tố tụng hình sự, tái bản lần thứ hai, Nxb. Dalloz, năm 2012)
Đây là công trình nghiên cứu chi tiết và đầy đủ nhất, riêng về thủ tục tái thẩm của Cộng hoà Pháp. Nghiên cứu khẳng định, mặc dù pháp luật ghi nhận nguyên tắc hiệu lực của bản án, quyết định nhưng một bản án hình sự có HLPL áp dụng đối với các cá nhân phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng vẫn có thể bị xét lại. Việc xét lại theo thủ tục tái thẩm một mặt sửa chữa những sai lầm trong việc xử lý vụ án, mặt khác tiến hành việc xử lý đối với người thực sự thực hiện hành vi phạm tội, khác với giám đốc thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm về thẩm quyền hay về giải thích, áp dụng pháp luật. Để đảm bảo sự tôn trọng đối với bản án, quyết định việc xét lại theo thủ tục tái thẩm phải tuân thủ những điều kiện nghiêm ngặt về nội dung, trình tự tố tụng. Tác giả giải thích về thủ tục tái thẩm bằng việc dẫn chứng các vụ việc điển hình áp dụng trong xét xử tại Cộng hoà Pháp. Các vụ án thực tế được lấy từ Tập san hình sự của Toà hình sự tối cao, có vụ việc xảy ra từ năm 1896.
1.2.4. L'effet dévolutif en matière répressive des voies de recours exercées par l'inculpé seul, Paul Laguerre [116]. (Hiệu lực của các loại kháng cáo trong lĩnh vực hình sự do bị cáo thực hiện, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Paul Laguerre bảo vệ tại Khoa Luật Toulouse năm 1931).
Công trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về hiệu lực của các loại kháng cáo trong lĩnh vực hình sự bao gồm: kháng cáo phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL của Toà án; kháng cáo giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL của Toà án. Nghiên cứu không đề cập đến hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm do các chủ thể khác (Viện công tố và các đương sự khác) thực hiện. Kháng cáo tái thẩm khuyết tịch được chấp nhận trong các trường hợp luật định. Không phải trong mọi trường hợp kháng cáo tái thẩm đều dẫn đến việc mở phiên toà. Việc tiến hành tái thẩm tại Toà án được thực hiện sau khi Ủy ban tái thẩm chấp nhận. Trong một số trường hợp kháng cáo tái thẩm có thể dẫn đến việc đình chỉ thi hành bản án.
1.2.5. Procédure pénale, Etienne Vergès, Paris, LexisNexis, 2014 [119]. (Tố tụng hình sự, tác giả Etienne Vergès, Nxb. LexisNexis, Paris, 2014)
Etienne Vergès giới thiệu đến người đọc nội dung cơ bản của BLTTHS Cộng hoà Pháp, bao gồm các nguyên tắc cơ bản và các quy định cụ thể. Trên thực tế, BLTTHS chịu sự tác động từ Luật hiến pháp và pháp luật cộng đồng châu Âu. Vì vậy, tác giả lựa chọn cách tiếp cận toàn diện, có hệ thống trên cơ sở kết hợp giới thiệu nội dung BLTTHS với các phán quyết của cơ quan tài phán, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá.
Khác với công trình tác giả từng công bố năm 2007, tác phẩm cập nhật những thay đổi trong các Luật mới được Nghị viện Công hoà Pháp thông qua như Luật số 2014-535 ngày 27/5/2014 về quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hình sự; Luật số 2014-640 ngày 20/6/2014 về đổi mới các thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL. Tái thẩm được đề cập với tính chất là một phần trong tổng thể các thủ tục kháng cáo, kháng nghị và xem xét lại bản án, quyết định. Tác giả giới thiệu những nội dung cơ bản về thủ tục tái thẩm và cập nhật những sửa đổi gần đây.
1.2.6. Criminal Procedure for the Criminal Justice Professional, John N. Fedico, Henry F. Fradella, Christopher D. Totten, 10th Edition, 2008 [99]. (Tố tụng hình sự dành cho các chuyên gia về tư pháp hình sự, nhóm tác giả John N. Fedico, Henry F. Fradella, Christopher D. Totten, tái bản lần thứ 10, xuất bản năm 2008).
Nghiên cứu chỉ rò thủ tục tố tụng ở các Toà án của Hoa Kỳ chia ra làm 3 giai đoạn với mốc trung tâm là phiên toà xét xử, bao gồm: thủ tục tố tụng trước phiên toà (The Procedure before Trial), thủ tục tố tụng trong phiên toà (The Procedure during Trial) và thủ tục tục tố tụng sau phiên toà (The Procedure after Trial). Trong đó thủ tục yêu cầu phiên toà mới có thể được tiến hành dựa trên căn cứ về việc phát hiện chứng cứ mới (mang bản chất của cả thủ tục tái thẩm và giám đốc thẩm ở Việt Nam). Yêu cầu phiên toà mới (Motions for new Trial) nằm trong quy định tại phần thủ tục sau phiên toà cùng với chế định phúc thẩm. Thủ tục này cùng hai thủ tục khác được nhóm tác giả nhìn nhận như ba phương thức để giải thoát cho bị cáo sau bản án tuyên có tội.
Toà án chấp nhận yêu cầu phiên toà mới khi có những phát hiện mới về chứng cứ. Bị cáo có trách nhiệm chứng minh việc có thêm chứng cứ mới được phát hiện. Để chứng minh cho yêu cầu về phiên toà mới, chứng cứ mà bị cáo đưa ra phải đáp ứng những điều kiện sau: chứng cứ mới được phát hiện sau phiên toà và có thể thay đổi kết quả của phiên toà; chứng cứ mới này không thể được phát hiện trước phiên toà khi mà các nghĩa vụ của Toà án đã được thực hiện một cách đúng đắn và mẫn cán.
1.2.7. Criminal Law and Procedure for the Paralegal - A systems approach, James H. McCord, Sandra I. McCord, 3rd Edition [105]. (Luật hình sự và tố tụng hình sự dành cho trợ lý luật sư - Tiếp cận từ góc nhìn hệ thống, tái bản lần thứ 3 của hai tác giả James H. McCord và Sandra I. McCord).
Nghiên cứu chỉ ra mục đích của yêu cầu sau phiên toà trong TTHS Hoa Kỳ. Các tác giả nhấn mạnh, với những người không am hiểu về luật pháp, vụ án hình sự có vẻ như đã kết thúc sau phiên toà với một bản án được tuyên. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự bắt đầu cho những yêu cầu quan trọng sau đó, bao gồm yêu cầu sau phiên toà và thủ tục phúc thẩm. Yêu cầu sau phiên toà có tính chất quan trọng bởi chúng giúp cho Toà án đã xét xử có cơ hội cuối cùng được sửa các sai sót sau khi vấn đề đã được kháng cáo phúc thẩm lên Toà án cấp cao hơn, khi bản án đã có HLPL.
Cơ sở lý luận của yêu cầu phiên toà mới dựa trên sự áp dụng sai pháp luật (mang bản chất tương tự như giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam) và sự phát hiện chứng cứ mới cho phép kết luận kết quả trong bản án của Toà án là không đúng (mang bản chất tương tự tái thẩm trong TTHS Việt Nam). Phiên toà mới được tiến hành khi có yêu cầu do phát hiện chứng cứ mới khẳng định một cách chắc chắn bản án tuyên là không đúng. Thủ tục này quy định tại Điều 33 Quy định Liên Bang về TTHS (Federal Rules of Criminal Procedure). Thời hạn yêu cầu phiên toà mới do áp dụng sai pháp luật là 14 ngày, thời hạn yêu cầu phiên toà mới dựa trên sự xuất hiện của chứng cứ mới là 3 năm. Nếu như yêu cầu được chấp nhận, thẩm phán có thể hủy bỏ bản án kết tội trước đó và đưa các chứng cứ mới vào xem xét.
1.2.8. Criminal Procedure - Law and Practice, Rolando V. Del Carmen, 7th
Edition, 2007 [97]. (Tố tụng hình sự - Luật và thực tiễn áp dụng, tái bản lần thứ 7 của tác giả Rolando V. Del Carmen).
Trong nghiên cứu của mình, tác giả chỉ ra tại Hoa Kỳ, nguyên tắc không ai bị xét xử hai lần về một hành vi được thừa nhận nhưng khi có yêu cầu phiên toà mới của người bị kết tội, hành vi của họ vẫn có thể được xem xét lại. Việc yêu cầu phiên toà mới đồng nghĩa chấp nhận việc xét xử hai lần và không vi phạm nguyên tắc đã đặt ra. Yêu cầu sau phiên toà được giới thiệu trong chương về thủ tục TTHS chung tại Hoa Kỳ. Yêu cầu phiên toà mới do có chứng cứ mới không chỉ được thực hiện ở cấp độ bang mà có thể được thực hiện theo pháp luật TTHS ở cả cấp độ Liên bang. Yêu cầu phiên toà mới dựa trên sự xuất hiện của chứng cứ mới sẽ được chấp nhận vì “lợi ích tư pháp” (in the interest of justice).
1.2.9. Interpreting the phrase “Newly discovered evidence”: May previous unavailable exculpatory testimony serve as the basis for a motion for a new trial under rule 33? Mary Ellen Brennan, Fordlaw review, Volume 77, Issue 3, Article 4, 2008 [96]. (Giải thích thuật ngữ “chứng cứ mới phát hiện: Liệu lời khai gỡ tội không được sử dụng tại phiên toà có thể là căn cứ đề nghị phiên toà mới theo quy định tại điều 33?”).
Bài viết tập trung giải thích thuật ngữ “chứng cứ mới phát hiện” là căn cứ để yêu cầu phiên toà mới sau khi bản án đã qua cả cấp phúc thẩm ghi nhận tại Điều 33
Quy định Liên bang về TTHS (Federal Rules of Criminal Procedure) của Hoa Kỳ. Theo tác giả, các Toà án Hoa Kỳ quy định một cơ chế mà theo đó thẩm phán có thể áp dụng thủ tục phiên toà mới khi họ nhận thấy bồi thẩm đoàn đã ra bản án không đúng đắn. Các Toà án Liên bang và Toà án bang ở Hoa Kỳ ban hành điều kiện gần như thống nhất để xem xét đề nghị phiên toà mới dựa trên căn cứ có chứng cứ mới. Toà án thường nhắc đến các điều kiện này với tên gọi “Berry rule” hay “Berry test”. Các tên gọi này xuất phát từ bản án của vụ án giữa Berry và Nhà nước bang Georgia năm 1851. Khi đó, Toà án tối cao bang Georgia đã xây dựng các điều kiện và sử dụng chúng để không chấp nhận đề nghị phiên toà mới của bị cáo Berry. Toà án xét xử vụ án Berry đã liệt kê các điều kiện để áp dụng thủ tục phiên toà mới dựa trên căn cứ chứng cứ mới phát hiện: i) Chứng cứ mới được biết đến bởi Toà án từ phiên toà; ii) Chứng cứ không được biết đến không phải do sự thiếu mẫn cán của toà án; iii) Chứng cứ mới quan trọng và có thể đưa đến một bản án khác, nếu phiên toà mới được áp dụng; iv) Chứng cứ mới không chỉ đơn thuần là sự tích lũy các sự kiện, thông tin; v) Lời khai của người làm chứng nên được ghi nhận hoặc sự thiếu vắng lời khai đó phải được ghi nhận; vi) Phiên toà mới được áp dụng không vì bản ghi lời khai mới chỉ hướng đến nghi ngờ nhân cách hay uy tín của người làm chứng.
Theo Brennan, các Toà án hiện tại vẫn áp dụng các điều kiện này để xem xét đề nghị cho phiên toà mới. Tuy nhiên, các Toà án đã lược bỏ điều kiện thứ 5 và thay vào đó là điều kiện về việc chứng cứ có thể làm thay đổi kết quả vụ án.
Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy sự hình thành và phát triển chế định “đề nghị cho phiên toà mới” khi mong muốn về công bằng trong vụ án đã được giải quyết đặt trong sự khiên cưỡng phải thay đổi phán quyết của bồi thẩm đoàn. Cho rằng chế định này xuất phát từ Anh, du nhập vào Hoa Kỳ và lần đầu tiên được quy định trong Đạo luật về Tư pháp năm 1789, nghiên cứu có sự so sánh nhất định về thủ tục này trong pháp luật của Anh và Hoa Kỳ.
1.2.10. Уголовно-процессуальное право, Лебедев В.М, Мoсква - Юрайт - 2013 [120]. (Luật tố tụng hình sự, tác giả Лебедев В.М, Luật sư, Giáo sư, Chánh án Toà án tối cao Liên bang Nga)
Nghiên cứu chỉ rò, trong TTHS Liên bang Nga, tái thẩm và giám đốc thẩm