Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 5


Với các đặc điểm khác nhau về kinh tế, văn hoá, truyền thống pháp luật, mỗi quốc gia đều đưa ra giải pháp khác nhau để khắc phục sai lầm về áp dụng pháp luật và sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL. Có quốc gia quy định một thủ tục chung để khắc phục cả hai sai lầm trên, có quốc gia quy định hai thủ tục riêng biệt là giám đốc thẩm sửa chữa sai lầm về áp dụng pháp luật và tái thẩm để sửa chữa sai lầm về sự việc (Chúng tôi sẽ đề cập cụ thể trong phần 2.3).

Theo Từ điển tiếng Việt, “tái thẩm” là “xét lại một bản án hoặc quyết định đã có HLPL (khi phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi bản chất của vụ án)” [91, tr. 885-886]. Tái thẩm được xác định là động từ, chỉ hoạt động xét lại với đối tượng xem xét là bản án, quyết định đã có HLPL và trong trường hợp phát hiện tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ án. Dưới góc độ ngôn ngữ chung, khái niệm này không chỉ rò về thẩm quyền tiến hành, cơ sở phát sinh, mục đích và quyền hạn khi tái thẩm.

Tái thẩm được ghi nhận trong pháp luật TTHS Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới với những dấu hiệu đặc trưng riêng. Trong TTHS Pháp, tái thẩm được quy định như một thủ tục đặc biệt, nhà làm luật sử dụng thuật ngữ “révission”. Theo Từ điển Pháp – Việt, “révission” là danh từ có nghĩa là “sự xét lại, sự duyệt lại” [59, tr. 1453]. Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý Pháp – Việt, “révission” có nghĩa chung là “sửa đổi” và dưới góc độ chuyên ngành của khoa học luật tố tụng được luận giải “là việc xét xử lại vụ án đã có bản án, quyết định có HLPL nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi căn bản bản án, quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó” [32, tr. 804]. Các nghiên cứu về tái thẩm trong TTHS Cộng hoà Pháp hầu như thống nhất đưa ra khái niệm: “Tái thẩm là một thủ tục đặc biệt trong TTHS được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng cáo, kháng nghị vì có những bằng chứng mới cho phép chứng minh người phạm tội vô tội hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó” [115; 118, tr. 289]. Tái thẩm được xem xét là một thủ tục đặc biệt


trong TTHS với những dấu hiệu riêng về đối tượng, cơ sở phát sinh, thẩm quyền, thủ tục. Đặc biệt, căn cứ kháng cáo, kháng nghị tái thẩm (nằm trong cơ sở phát sinh tái thẩm) cho thấy rò sự khác nhau với giám đốc thẩm.

Trong tiếng Anh, có nhiều thuật ngữ đồng nghĩa chỉ việc xét lại bản án, quyết định đã có HLPL của Toà án như: “Retrail” là danh từ chỉ “sự xét lại một vụ án” [63, tr. 1289]; “review” có hai nghĩa: danh từ chỉ “sự xem xét lại, sự duyệt lại, sự kiểm tra” và động từ chỉ “xem xét lại, duyệt lại”; “revision” là danh từ chỉ “sự xem lại, sự sửa lại” [63, tr. 1291]. Trong hệ thống pháp luật quốc tế, thuật ngữ “review proceedings” được dùng khi quy định thủ tục xét lại bản án của Toà án sau khi đã phúc thẩm. Như vậy dưới góc độ ngôn ngữ Anh, có sự tương đối thống nhất trong cách giải thích thuật ngữ “tái thẩm”. Đó là danh từ chỉ việc việc xem xét lại và động từ chỉ hoạt động xét lại.

Khi đề cập đến tái thẩm trong TTHS các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý Việt Nam, đưa ra nhiều khái niệm khác nhau, cụ thể:

Thứ nhất: Tái thẩm có nghĩa đặc biệt là một tố cầu nhằm sửa lại một bản án nhất định đã xử sai lạc vì đã bị một sự kiện trái sự thật làm lạc hướng sự xét đoán [58, tr. 451].

Thứ hai: Tái thẩm là giai đoạn của TTHS, trong đó Toà án có thẩm quyền xét lại những bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó [61, tr. 453].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

Thứ ba: Tái thẩm là thủ tục tố tụng do Toà án cấp trên thực hiện theo trình tự pháp luật quy định để xét lại bản án, quyết định hình sự đã có HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị khi có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án mà Toà án không biết được khi ra bản án, quyết định đó nhằm khắc phục sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án [12, tr. 15].

Thứ tư: Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án đã có HLPL, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó [33, tr. 120].

Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 5


Thứ năm: Thủ tục tái thẩm là hình thức luật định mà Toà án có thẩm quyền áp dụng để xét lại bản án hoặc quyết định hình sự đã có HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó, nhằm đảm bảo sự thật vụ án được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ [67, tr. 16].

Thứ sáu: Tái thẩm là việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó [6, tr. 520]. Mặc dù được nhìn nhận dưới góc độ khác nhau nhưng các khái niệm trên đều khẳng định tái thẩm được tiến hành để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL bị kháng nghị vì có căn cứ cho rằng bản án, quyết định đó sai lầm. Sự thống nhất này thể hiện quan điểm nhất quán của các nhà khoa học, xác định đối tượng của tái thẩm là bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL. Tất cả các quan điểm

đều khẳng định tái thẩm không phải là một cấp xét xử trong tố tụng.

Ngoài những điểm thống nhất trên, mỗi khái niệm đưa ra được một hoặc một vài đặc điểm của tái thẩm và được đề cập dưới hai góc độ khác nhau: góc độ thứ nhất cho rằng tái thẩm là một giai đoạn của quá trình tố tụng; góc độ thứ hai cho rằng tái thẩm là một thủ tục trong tố tụng.

Quan điểm xác định tái thẩm là giai đoạn của TTHS (khái niệm thứ ba) là thiếu thuyết phục. Cũng giống như giám đốc thẩm, mặc dù tái thẩm có nhiệm vụ riêng, trình tự, thủ tục riêng và kết thúc bởi văn bản tố tụng nhất định nhưng chưa thỏa mãn đầy đủ các đặc điểm của giai đoạn trong TTHS. Tái thẩm không phải là giai đoạn tố tụng bởi vì thời điểm bắt đầu của tái thẩm không phải là thời điểm kết thúc của giai đoạn trước đó [12, tr. 10]. Tái thẩm có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết vụ án hình sự sau khi vụ án đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án có HLPL. Có thể ở thời điểm: sau giai đoạn xét xử sơ thẩm khi bản án, quyết định sơ thẩm có HLPL do không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; sau giai đoạn xét xử phúc thẩm; sau khi đã có quyết


định giám đốc thẩm, tái thẩm; khi bản án đã được đưa ra thi hành, thậm chí có trường hợp bản án đã thi hành xong. Đồng thời nếu cho rằng tái thẩm là giai đoạn tố tụng thì cần phải đưa vào khái niệm các dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng độc lập bao gồm nhiệm vụ riêng, phạm vi đặc thù về chủ thể, hành vi tố tụng đặc trưng, quyết định tố tụng kết thúc giai đoạn đó. Nghiên cứu tái thẩm dưới góc độ này khó phân biệt được tái thẩm với giám đốc thẩm trong TTHS. Việc không phân biệt được tái thẩm với giám đốc thẩm là một trong những lý do cơ bản hình thành quan điểm nhập giám đốc thẩm và tái thẩm thành một thủ tục chung.

Các khái niệm còn lại đều cho rằng tái thẩm là thủ tục trong TTHS. Mặc dù đều coi tái thẩm là thủ tục trong TTHS nhưng mỗi khái niệm đưa ra một số đặc điểm riêng chưa mang tính toàn diện và khó phân biệt với thủ tục giám đốc thẩm. Khái niệm thứ nhất có nhắc đến cụm từ “đặc biệt” để khẳng định tính chất của tái thẩm. Mặc dù khái niệm chỉ ra được mục đích của tái thẩm là sửa lại một bản án nhất định bị sai lạc nhưng dễ nhầm lẫn với phúc thẩm do không chỉ rò đối tượng là bản án đã có HLPL hay chưa có HLPL. Theo khái niệm này, tái thẩm chỉ sửa lại bản án mà không sửa lại các quyết định của Toà án. Căn cứ tái thẩm là có sự kiện trái sự thật được sử dụng trong quá trình xác định sự thật khách quan làm lạc hướng sự xét đoán. Căn cứ tái thẩm trong khái niệm này phân biệt được tương đối rò với căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm pháp luật. Sai lầm trong tái thẩm là sai lầm về nhận thức, không phải sai lầm về phương diện pháp luật.

Khái niệm thứ nhất, thứ tư và thứ sáu không chỉ rò thẩm quyền tái thẩm thuộc về cơ quan nào. Vì tái thẩm được xem xét là một thủ tục trong tố tụng nên thẩm quyền giải quyết là một dấu hiệu không thể thiếu, cần phải làm rò và đưa vào trong khái niệm. Dấu hiệu mục đích không được đề cập đến trong tất cả các khái niệm mặc dù đây là dấu hiệu quan trọng giúp phân biệt tái thẩm với giám đốc thẩm. Chúng tôi cho rằng tái thẩm là một thủ tục trong TTHS như đa phần các nhà khoa học thừa nhận.

Theo Từ điển tiếng Việt, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính chính thức” [91, tr. 961]. Pháp luật TTHS ghi nhận các thủ tục tố tụng như xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc


thẩm, tái thẩm. Tái thẩm là thủ tục trong TTHS với các dấu hiệu đặc trưng khác với sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm về: cơ sở phát sinh, đối tượng, mục đích, thẩm quyền và thủ tục giải quyết.

* Về cơ sở phát sinh: là kháng nghị/kháng cáo của người có quyền với căn cứ chặt chẽ, cụ thể, trong thời hạn luật định.

Xét xử sơ thẩm tại Toà án phát sinh trên cơ sở buộc tội của cơ quan công tố, là cơ sở có tính thống nhất trong quy định của hầu hết các quốc gia. Nếu không có buộc tội của cơ quan công tố, việc xét xử sơ thẩm không thể thực hiện. Cơ sở phát sinh thủ tục phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm và cũng được quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong pháp luật quốc tế kháng cáo phúc thẩm được ghi nhận là quyền của các chủ thể có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án. Việc xét xử phúc thẩm tiến hành khi kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đúng chủ thể, thủ tục, thời hạn mà không quy định căn cứ. Việc xem xét kháng cáo, kháng nghị có căn cứ hay không được giải quyết tại toà phúc thẩm, thể hiện ở kết luận cuối cùng khi bản án, quyết định phúc thẩm tuyên chấp nhận hay không chấp nhận, chấp nhận một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.

Giống như giám đốc thẩm, cơ sở để Toà án tiến hành tái thẩm là kháng nghị có căn cứ luật định. Điểm khác nhau chủ yếu giữa tái thẩm và giám đốc thẩm là căn cứ kháng nghị. Có ý kiến cho rằng, căn cứ kháng nghị tái thẩm là tình tiết mới được phát hiện, làm thay đổi bản chất vụ án. Trong trường hợp này, dù Toà án không biết được khi ra bản án, quyết định (không có lỗi), nhưng thực chất vẫn là sai lầm trong việc giải quyết vụ án, giống như căn cứ giám đốc thẩm [12, tr. 15]. Các nhà khoa học theo quan điểm này khẳng định bản chất căn cứ giám đốc thẩm và tái thẩm đều là vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án, căn cứ cuối cùng của hai thủ tục vẫn là tương đồng nhau [53, tr. 459].

Trái ngược với ý kiến trên, một số nhà khoa học cho rằng giám đốc thẩm và tái thẩm là các thủ tục khác nhau về bản chất và đặc điểm cơ bản tạo nên sự khác nhau giữa giám đốc thẩm và tái thẩm là căn cứ kháng nghị [29, tr. 27]. Nếu đối với tái thẩm tình tiết được dùng làm căn cứ kháng nghị và xem xét tại toà là tình tiết


mới được phát hiện, trước đó Toà án chưa biết và chưa được xác minh, điều tra, tức chưa có trong hồ sơ vụ án và vì thế không được cân nhắc, đánh giá khi ra bản án hoặc quyết định, thì đối với giám đốc thẩm tình tiết được đưa ra làm căn cứ kháng nghị và xem xét đã được Toà án biết đến hoặc đã được xác minh, điều tra theo trình tự luật định, tức đã có trong hồ sơ vụ án nhưng do Toà án đánh giá sai ý nghĩa pháp lý của nó hoặc do qua loa, đại khái mà không nhận ra mặc dù đã có trong hồ sơ [10, tr. 4]. Nếu sai lầm do yếu tố chủ quan trong việc xử lý vụ án thì bản án có HLPL có thể bị kháng nghị để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu sai lầm do yếu tố khách quan khi phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó thì vụ án có thể được xem xét theo thủ tục tái thẩm [16, tr. 2].

Thực tế cho thấy xác định sai lầm trong bản án hay quyết định của Toà án đã có HLPL do yếu tố chủ quan hay khách quan không đơn giản. Tái thẩm và giám đốc thẩm khác nhau cơ bản về căn cứ kháng nghị, vì vậy đòi hỏi phải quy định hai thủ tục hoàn toàn khác.

Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Việc vi phạm là lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đó có thể là vi phạm pháp luật hình thức hoặc áp dụng pháp luật nội dung. Căn cứ kháng nghị tái thẩm liên quan đến vấn đề xác định sự thật vụ án hình sự. Sự thật vụ án hình sự được xác định trong bản án, quyết định có HLPL được đánh giá là không đúng bởi phát hiện tình tiết (là một phần sự thật vụ án) mà khi ra bản án, quyết định Toà án không biết.

Sự việc phạm tội cũng giống như các sự việc, hiện tượng khác trong thế giới, nó tồn tại khách quan và không bao giờ mất đi tính khách quan. Nếu người tiến hành tố tụng nhận thức đúng thực tế sự việc thì nhận thức đó mang tính khách quan, toàn diện và đầy đủ. Khi đánh giá về mặt pháp lý của sự việc, hành vi, Toà án tiến hành hoạt động theo quy định của pháp luật TTHS, áp dụng pháp luật hình sự hiện hành tại thời điểm đó để xác định sự việc đã nhận thức có phải là sự việc phạm tội không, hành vi có cấu thành tội phạm không, người bị buộc tội có phải là người


thực hiện hành vi phạm tội, sự việc thực tế đó quyết định như thế nào với các vấn đề khác của vụ án. Trong trường hợp có sự thay đổi trong quy định của pháp luật hình sự (có thể xoá bỏ, tăng nặng hay giảm nhẹ đối với hành vi phạm tội) thì sự thật của vụ án hình sự đó vẫn không mất đi tính khách quan, mà chỉ là việc đánh giá những tình tiết đó theo tiêu chí mới về chính trị - xã hội và pháp luật hình sự [55, tr. 7]. Vì vậy, cùng một sự việc, hiện tượng của thực tế khách quan nhưng trong những thời điểm khác nhau, tùy thuộc và điều kiện cụ thể mà nhà làm luật xác định hành vi có phạm tội hay không. Có hai vấn đề Toà án phải giải quyết trước khi ra phán quyết chính thức bằng bản án hoặc quyết định: một là, làm sáng tỏ những tình tiết, sự việc có thật của vụ án hình sự (chúng tôi vẫn dùng thuật ngữ vụ án hình sự vì vụ án bị đưa ra Toà án xét xử do bên buộc tội vẫn khẳng định đây là vi phạm pháp luật hình sự); hai là, đánh giá đúng những tình tiết đó dưới góc độ pháp lý – xã hội để cuối cùng quyết định đúng về trách nhiệm hình sự. Việc đánh giá tình tiết, sự việc dưới góc độ pháp lý như trên đã phân tích có thể thay đổi phụ thuộc vào thay đổi của Hiến pháp, pháp luật của các nước. Nếu tại thời điểm đánh giá và ra phán quyết, Toà án đánh giá tình tiết, sự việc dưới góc độ pháp lý sai thì có nghĩa đã vi phạm pháp luật. Đây là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, khắc phục vi phạm pháp luật, xoá bỏ án lệ sai (đối với các nước theo hệ thống án lệ), tránh tiền lệ sai (đối với các nước theo hệ thống pháp luật thành văn).

Trong trường hợp sau khi bản án, quyết định đã có HLPL mới phát hiện tình tiết khẳng định nhận thức về sự việc của vụ án thể hiện trong bản án, quyết định là sai lầm, nhận thức của Toà án không khách quan, toàn diện và đầy đủ thì đó là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Tình tiết là căn cứ kháng nghị tái thẩm phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, là tình tiết tồn tại khách quan trước khi Toà án ra bản án, quyết định. Tình tiết là căn cứ kháng nghị tái thẩm không phải mới xuất hiện mà tồn tại như một phần của hiện thực khách quan ngay trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có ngay tại thời điểm Toà án ra bản án hoặc quyết định. Tình tiết này có mối quan hệ với vụ án hình sự đang giải quyết, là một phần sự thật khách quan của vụ án. Chỉ những tình


tiết xuất hiện vào thời điểm tiến hành tố tụng đối với vụ án mới làm cho việc giải quyết vụ án bị sai lệch so với thực tế khách quan, làm thay đổi nội dung bản án hoặc quyết định mà đáng lẽ Hội đồng xét xử phải ra vào chính thời điểm đó [26, tr. 19].

Thứ hai, tình tiết này được phát hiện sau khi bản án, quyết định của Toà án có HLPL. Nếu phát hiện trước khi bản án, quyết định có HLPL các chủ thể có thể kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm. Nếu phát hiện trước khi xét xử sơ thẩm có thể điều tra bổ sung khi có yêu cầu.

Thứ ba, Toà án không biết về tình tiết này khi ra bản án, quyết định. Trong toàn bộ quá trình tố tụng cho đến khi bản án quyết định có HLPL, tình tiết này chưa được xác định; trong hồ sơ vụ án tình tiết này không được ghi nhận. Trường hợp hồ sơ vụ án có tồn tại chứng cứ được phát hiện nhưng do lý do nào đó mà Toà án không biết được nên phán quyết về vụ án sai thì không phải là căn cứ tái thẩm [12, tr. 13]. Toà án không biết về các tình tiết này có thể do không thể biết vì những yếu tố khách quan, do trình độ nhận thức chung của xã hội hoặc do trình độ phát triển còn hạn chế của khoa học kỹ thuật tại thời điểm đó. Toà án đã áp dụng mọi biện pháp luật định theo đúng trình tự, thủ tục, áp dụng mọi biện pháp có thể và cần thiết tại thời điểm đó nhưng không phát hiện ra tình tiết này. Trong trường hợp đó mặc dù bản án hoặc quyết định không đúng sự thật khách quan nhưng hoàn toàn không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Toà án. Nếu có vi phạm nghiêm trọng thì sẽ là căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.

Thứ tư, tình tiết mới được phát hiện phải làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định. Những tình tiết tuy mới được phát hiện nhưng không dẫn đến làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định không phải là căn cứ kháng nghị tái thẩm. Đa phần các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý cho rằng thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định có HLPL là làm thay đổi quan điểm của Toà án theo hướng đối lập hoàn toàn với các kết luận trong bản án hoặc quyết định của Toà án. Tuy nhiên, phạm vi tác động của tình tiết mới đối với các phán quyết được tuyên trong bản án, quyết định đã có HLPL thì chưa có sự thống nhất. Có ý kiến cho rằng tình tiết mới được phát hiện phải làm thay đổi quan điểm của Hội đồng xét

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí