Các Phương Pháp Sử Dụng Trong Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp

2.2.1.4. Thuyết minh báo cáo tài chính

Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày nhằm giúp cho người đọc và phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng cân đối kế toán và kết quả hoạt động kinh doanh.

Mẫu thuyết minh báo cáo tài chính có thể do nhà nước quy định, có thể một phần do doanh nghiệp lập để tiện cho công tác quản lý và phân tích tài chính doanh nghiệp

2.2.2. Các phương pháp sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp

Phương pháp phân tích báo cáo tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu báo cáo tài chính một cách tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.

Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích báo cáo tài chính nhưng trên thực tế, người ta thường sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số.

- Phương pháp so sánh: để áp dụng phương pháp này, cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn có thể là về không gian hoặc thời gian, kỳ phân tích được chọn có thể là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn là số tuyệt đối, tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh bao gồm:

+ So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy xu hướng thay đổi tình hình tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi của doanh nghiệp.

+ So sánh giữa số kỳ thực hiện với số kỳ kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.

+ So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hay xấu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

+ So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.

- Phương pháp tỷ số: phương pháp này dựa trên chuẩn mực là các tỷ số của các đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với giá trị các tỷ số tham chiếu.

Tài chính doanh nghiệp - 10

Trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp, các tỷ số tài chính được phân thành các nhóm tỷ số đặc trưng phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi nhóm tỷ số lại bao gồm nhiều tỷ số phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính.

Khi tiến hành phân tích các tỷ số tài chính, có thể tiến hành phân tích theo các bước như sau:

Bước 1: Xác định đúng công thức đo lường chỉ tiêu cần phân tích.

Bước 2: Xác định đúng số liệu từ báo cáo tài chính để đưa vào công thức tính. Bước 3: Giải thích ý nghĩa của tỷ số vừa tính.

Bước 4: Đánh giá tỷ số vừa tính toán (cao, thấp hay phù hợp). Bước 5: Rút ra kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bước 6: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số tài chính.

Bước 7: Đưa ra các khuyến nghị để khắc phục hoặc củng cố các tỷ số tài chính. Bước 8: Viết báo cáo.

Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên, người ta còn sử dụng một số phương pháp khác: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp toán tài chính,... kể cả phương pháp phân tích các tình huống giả định.

Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các phương pháp sẽ đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân tích tài chính kết quả mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Do vậy, phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ tổng quát đánh giá chung cho đến các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận tình hình tài chính trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh giá các chỉ số tổng quát về tình hình tài chính và để hiểu rò hơn ta sẽ phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó, đồng thời so sánh với tỷ lệ tham chiếu để cho thấy được xu hướng biến động cũng như khả năng hoạt động của doanh nghiệp so với mức trung bình ngành ra sao.

2.3. NỘI DUNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Các báo cáo tài chính trình bày tình hình tài chính của một doanh nghiệp ở một thời điểm (bảng cân đối kế toán), hoặc qua một thời kỳ (báo cáo kết quả kinh doanh) hoặc cả hai (báo cáo lưu chuyển tiền tệ). Tuy nhiên, các báo cáo này chỉ cung cấp được các dữ liệu tài chính mà chưa cung cấp nhiều thông tin tài chính. Để có được thông tin tài chính, cần đưa các báo cáo này vào phân tích.

2.3.1. Phân tích các tỷ số tài chính của doanh nghiệp

Dựa vào cách thức sử dụng số liệu để xác định, tỷ số tài chính có thể chia thành ba loại: tỷ số tài chính được xác định từ bảng cân đối kế toán, tỷ số tài chính được xác

định từ báo cáo kết quả kinh doanh và tỷ số tài chính xác định từ cả hai báo cáo trên. Dựa vào mục tiêu phân tích, các tỷ số tài chính có thể chia thành các tỷ số thanh toán, tỷ số nợ, tỷ số khả năng hoàn trả nợ và lãi vay, tỷ số hiệu quả hoạt động, các tỷ số khả năng sinh lãi và các tỷ số tăng trưởng.

Trong phân tích báo cáo tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm chính. Đó là: nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi. Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài chính là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không? Liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng được những khoản nợ đến hạn không? Nhưng tuỳ theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm đến tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động có lãi và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu chi trả hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số cân đối vốn vì sự thay đổi tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.

2.3.1.1. Các tỷ số về khả năng thanh toán

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều quan tâm đền khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ số về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán.

Các tỷ số về khả năng thanh toán bao gồm

a. Hệ số thanh toán chung (hiện hành – ngắn hạn)

Là tỷ số được xác định bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải

thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác... Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới một năm. Hệ số thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó; nghĩa là mỗi đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động có thể sử dụng để thanh toán.

Công thức của hệ số thanh toán chung như sau :


Hệ sốthanh toán chung = Tài sản lưu động (3.1)

Nợ ngắn hạn

Khi đánh giá khả năng thanh toán bằng hệ số khả năng thanh toán chung có thể gặp các trường hợp sau:

- Trường hợp hệ số giảm nhiều hoặc quá thấp so với mức bình thường chứng tỏ doanh nghiệp tiềm ẩn những khó khăn về tài chính đối với việc trả nợ ngắn hạn. Đặc biệt, nếu hệ số này thấp hơn 1 thì khả năng trả nợ đầy đủ là không thể, cho dù có cố gắng thu hết số nợ ngắn hạn, bán hết chứng khoán ngắn hạn và giảm lượng hàng tồn kho để chuyển hoá thành tiền.

- Trường hợp hệ số này quá cao, tuy khả năng thanh toán chung là tốt (sẵn sàng trả được nợ ngắn hạn đầy đủ) nhưng trên phương diện hiệu quả sử dụng vốn chưa hẳn đã tốt vì có thể doanh nghiệp để đọng nhiều hơn nợ phải thu, hàng tồn kho cao, tiền mặt, tiền gửi dư thừa nhiều.

Vì vậy, đánh giá khả năng thanh toán chung phải căn cứ vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp, trước hết là các khoản nợ ngắn hạn đã hợp lý chưa và có bố trí các yếu tố cần và đủ cho việc thanh toán nợ không.

Căn cứ vào bảng cân đối kế toán trong mục 2.1, có thể xác định:


Hệ số thanh toán chung đầu năm

Hệ số thanh toán chung cuối năm

71.784.621.000

53.799.098.000


118.693.420.000

102.898.840.000

1.33


1,15

Hệ số thanh toán chung năm nay thấp hơn năm trước. Nếu hệ số này của các doanh nghiệp cùng ngành thường là 3 chẳng hạn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp quá thấp. Nguyên nhân có thể tìm từ nhân tố lượng hàng tồn kho cao và nợ phải thu quá lớn.

b. Hệ số thanh toán nhanh

Một hệ số thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.

Hệ số thanh toán nhanh được xác định bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và các khoản phải thu. Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ khi đem bán. Do vậy, hệ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán hàng tồn kho; nghĩa là mỗi đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động có thể huy động ngay để thanh toán.

Hệ số thanh toán nhanh = Hoặc:


Hệ số thanh toán nhanh =

Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu Nợ ngắn hạn


Tài sản lưu động – Giá trị hàng tồn kho Nợ ngắn hạn

(3.2)


(3.3)


Nói chung hệ số này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống như trường hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh toán nhanh là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.

Theo bảng cân đối Kế toán, với công thức (3.3) có thể tính:


Hệ số thanh toán nhanh đầu năm

Hệ số thanh toán nhanh cuối năm

71.784.621.000 -15.445.985.000 1,05

53.799.098.000


118.693.420.000 - 25.528.628.000 0.91

102.898.840.000

Hệ số thanh toán cuối năm đã giảm đi và thấp hơn 1 thể hiện khó khăn của doanh nghiệp trong việc thanh toán nợ ngắn han, cho dù lấy cả các khoản nợ phải thu ngắn hạn làm căn cứ tính khả năng trả nợ.

c. Hệ số thanh toán tức thời

Hệ số thanh toán nhanh chưa bộc lộ hết khả năng thanh toán của doanh nghiệp bởi nó mới tính đến các khoản nợ ngắn hạn. Nếu nợ dài hạn đến hạn trả doanh nghiệp

phải xử lý như thế nào nếu không lập kế hoạch từ trước và nó có khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không? Hệ số thanh toán tức thời cho chúng ta biết khá rò về tình trạng đó tuy nhiên hệ số này hết sức nhạy cảm nên doanh nghiệp cần xác định phù hợp vì nếu hệ số thanh toán tức thời thấp hơn một thì doanh nghiệp phải bán các tài sản lưu động khác như chứng khoán ngắn hạn... để thanh toán, còn hệ số thanh toán tức thời quá cao tức doanh nghiệp dự trữ quá nhiều tiền mặt thì doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội sinh lời.

Hệ số thanh toán tức thời được xác định như sau:


Hệ số thanh toán tức thời = Tiền (3.4)

Nợ đến hạn

Hệ số thanh toán tức thời thể hiện mối quan hệ tiền (tiền mặt và các khoản tương đương tiền) và khoản nợ đến hạn phải trả. Nợ đến hạn phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đến hạn trả. Các chủ nợ đánh giá mức trung bình hợp lý cho hệ số này là 0,5. Khi hệ số này lớn hơn 0,5 thì khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp là khả quan và ngược lại.

Từ Bảng cân đối kế toán tính ra:

Hệ số thanh toán tức thời đầu năm

Hệ số thanh toán tức thời cuối năm

5.280.476.000

53.799.098.000

2.477.610.000

102.898.840.000

0,1


0,02

Cả 2 thời điểm (nhất là cuối năm) khả năng thanh toán của doanh nghiệp rất thấp. Nếu các chủ nợ đều đòi hỏi thanh toán thì doanh nghiệp rơi vào tình trạng hết sức kgó khăn, phải khất nợ, hoặc chịu nợ quá hạn.

3.3.1.2. Các tỷ số về khả năng cân đối vốn

Các tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, các khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí cho vốn vay là chi phí trước thuế.

Những doanh nghiệp có tỷ lệ này thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền kinh tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn so với doanh nghiệp có tỷ lệ này cao trong nền kinh tế bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao

có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi nhuận kỳ vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tư đều rất sợ rủi ro. Vì thế quyết định về sử dụng nợ phải được cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.

Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn.

a. Hệ số nợ(Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản)


Hệ số nợ = Nợ phải trả (3.5)

Tổng tài sản

Hệ số nợ phản ánh mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này thông thường sẽ được nhân với 100% để ra tỷ lệ phần trăm. Tỷ lệ này cho biết (1) mức độ sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của doanh nghiệp, (2) nợ chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp (vì tổng tài sản bằng tổng nguồn vốn).

Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ đã góp vốn cho doanh nghiệp. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu ưa thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào trạng thái mất khả năng thanh toán.

Theo số liệu của công ty trên Bảng cân đối Kế toán ta có hệ số nợ như sau:

53.700.258 0,62 hay 62%

Hệ số nợ năm trước Hệ số nợ năm nay

85.883.723


102.096.313 0,75 hay 75%

135.671.064

Hệ số nợ của công ty trong năm khá cao, nhất là cuối năm phân tích, nợ chiếm tới 75% nguồn vốn kinh doanh. Điều này cho thấy công ty phụ thuộc quá nhiều vào nợ mà lại là nợ ngắn hạn nên rủi tài chính khá cao, nếu việc sử dụng vốn không có hiệu quả. Trong số nợ ngắn hạn thì, những khoản nợ lớn nhất là vay ngắn hạn và nợ phải trả nguời bán, đây là những khoản nợ mà thời gian trả nợ rất ngắn, đó là khó khăn của doanh nghiệp.

b. Khả năng thanh toán lãi vay (Số lần có thể trả lãi)


Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (3.6)

Lãi vay

Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hàng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, khả năng thanh toán lãi vay giúp ta thấy được tình trạng thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi vay thấp so với mức trung bình của ngành sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn gia tăng nợ.

Nếu tỷ số này của doanh nghiệp nhỏ hơn 1 thì có hai khả năng: (1) doanh nghiệp vay nợ quá nhiều và sử dụng nợ vay kém hiệu quả khiến cho lợi nhuận làm ra không đủ để trả lãi vay, (2) khả năng sinh lợi của doanh nghiệp quá thấp khiến cho lợi nhuận làm ra không đủ để trả lãi vay.

Khi tính chỉ tiêu này cần chú ý:

- Lãi vay được tính vào chi phí tài chính của doanh nghiệp nên khi xác định lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp, trong báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp người ta đã trừ đi chi phí trả lãi vay. Vì vậy, để tính lợi nhuận trước lãi vay và thuế thì phải lấy số lợi nhuận trước thuế cộng với chi phí lãi vay.

- Lãi vay phải trả trong kỳ bao gồm tất cả các khoản lãi phải trả của tất cả các loại nợ vay.

Hệ số thanh toán lãi vay cũng nói lên mức độ rủi ro về tài chính của doanh nghiệp, bởi vì nếu hệ số này quá thấp cũng có nghĩa là chi phí để trả lãi vay quá cao, thậm chí nếu thấp hơn 1 tức là doanh nghiệp không có khả năng trả hết được lãi tiền vay (nếu trả được hết lãi vay thì doanh nghiệp lỗ).

Dựa trên tài liệu của công ty trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ta tính được hệ số thanh toán lãi vay như sau:

Hệ số thanh toán lãi vay năm trước

Hệ số thanh toán lãi vay năm nay

1.004.703 1.805.4641,55

1.805.464

1.255.715 703.264 2,78

703.264

Kết quả tính toán cho thấy doanh nghiệp có khả năng thanh toán được lãi vay và sau khi trả lãi vay vẫn có lợi nhuận. Năm nay (năm phân tích) hệ số thanh toán lãi vay cao hơn năm trước, mặc dù số nợ năm nay cao hơn chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn.

c. Khả năng độc lập về tài chính


Khả năng độc lập về tài chính = Vốn chủ sở hữu (3.7)

Vốn trung và dài hạn

Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của doanh nghiệp càng ít

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí