Phân Tích Tình Hình Đảm Bảo Nguồn Vốn Cho Hoạt Động Kinh Doanh

3.3.2.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh

a. Vốn lưu động

Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Để hình thành hai nguồn tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.

Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác.

Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh, nó có thời hạn trên một năm và bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung hạn và dài hạn.

Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản cố định (TSCĐ), phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư để hình thành tài sản lưu động (TSLĐ). Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn được gọi là vốn lưu động. Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của vốn lưu động.

Vốn lưu động = Vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nợ ngắn hạn (3.19) Có 3 trường hợp có khả năng xảy ra như sau:

- Vốn lưu động > 0: nguồn vốn dài hạn lớn hơn tài sản cố định, phần dư thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu động lớn hơn nợ ngắn hạn nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.

- Vốn lưu động = 0: nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh.

- Vốn lưu động < 0: nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư một phần nguồn vốn ngắn hạn vào tài sản cố định, tài sản lưu động không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn phải trả.

Như vậy, vốn lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, nó cho biết :

- Doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không?

- Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?

Từ công thức tính vốn lưu động ta có thể thấy các yếu tố làm thay đổi vốn lưu động là những nghiệp vụ làm thay đổi nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định của bảng cân đối kế toán.

* Các nghiệp vụ làm giảm vốn lưu động:

- Tăng tài sản cố định: tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố định tài chính.

- Giảm nguồn vốn dài hạn:

+ Giảm vốn chủ sở hữu: do chia lợi tức cổ phần, lỗ trong kinh doanh...

+ Hoàn trả tiền vay: trả tiền vay trung và dài hạn, hoàn trả trái phiếu đáo hạn...

* Các nghiệp vụ làm tăng vốn lưu động:

- Tăng nguồn vốn dài hạn :

+ Tăng vốn chủ sở hữu: phát hành thêm cổ phiếu thường, lợi nhuận không chia...

+ Tăng vay nợ trung, dài hạn; phát hành trái phiếu dài hạn...

- Giảm tài sản cố định thông qua nhượng bán.

Những thay đổi tài sản lưu động hoặc nợ phải trả ngắn hạn không làm thay đổi vốn lưu động, bởi vì việc tăng của một loại tài sản lưu động sẽ dẫn đến hoặc giảm một loại tài sản lưu động khác, hoặc tăng một dòng nợ ngắn hạn. Chẳng hạn, khi bán sản phẩm tồn kho sẽ làm giảm tồn kho và tăng tương ứng ở mục nợ phải thu (nếu bán chịu), hoặc tăng tiền mặt (nếu bán thu tiền ngay). Cần chú ý là chính sách khấu hao có tác động lớn vào vốn lưu động nếu doanh nghiệp áp dụng chế độ khấu hao nhanh thì vốn luân chuyển sẽ cao hơn so với áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng.

Vốn lưu động thể hiện mức độ an toàn, đảm bảo cho doanh nghiệp chống lại rủi ro làm mất giá trị tài sản hoặc rủi ro làm giảm tốc độ luân chuyển vốn dự trữ. Vì vậy, mọi biến động của vốn lưu động phải được chú ý theo dòi. Tại các thời điểm khác nhau có ba tình huống xảy ra :

- Tăng vốn lưu động: trong trường hợp này, an toàn của doanh nghiệp tăng vì phần lớn tài sản cố định được nguồn vốn dài hạn tài trợ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng để đạt được sự an toàn đó, doanh nghiệp phải tăng nợ dài hạn. Nếu khối lượng nợ dài hạn càng lớn sẽ dẫn đến chi phí tài chính càng cao, từ đó làm giảm kết quả kinh doanh. Nếu tăng vốn lưu độngbằng việc tăng vốn chủ sở hữu thì tình hình tài chính doanh nghiệp được cải thiện, nhưng doanh nghiệp phải chịu chi phí sử dụng vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Do vậy, quyết định tăng vốn lưu động và tăng bằng cách nào đòi hỏi một quyết định đúng.

Mặt khác, khi vốn lưu động đã tài trợ đủ cho tài sản cố định còn dư thừa, nếu sử dụng vốn lưu động tài trợ toàn bộ cho tồn kho không phải là quyết định quản trị tốt, vì có thể doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn dài hạn tốn kém cho đầu tư tài sản ngắn hạn mà lẽ ra việc sử dụng này phải do tín dụng ngắn hạn tài trợ.

- Giảm vốn lưu động: khi một doanh nghiệp giảm vốn lưu động sẽ làm cho mức độ an toàn tài chính của doanh nghiệp giảm xuống. Tuy vậy, nếu việc giảm vốn này nhằm tài trợ cho các khoản đầu tư sinh lời mới góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp thì cũng cần quan tâm xem xét kỹ.

- Giữ ổn định vốn lưu động: tình huống này thể hiện tình trạng giữ ổn định các hoạt động của doanh nghiệp để điều chỉnh cơ cấu đầu tư do lợi nhuận không tăng hoặc mức tăng trưởng giảm lâu dài, khi cần đánh giá thực trạng của tình huống này cần tiến hành nghiên cứu nguồn có khả năng tạo ra lợi nhuận để xem xét.

b. Nhu cầu vốn lưu động

Tại một thời điểm nào đó, vốn lưu động chỉ rò mức độ an toàn mà doanh nghiệp có được nhằm tài trợ cho chu kỳ kinh doanh của nó. Vì thế ta phải nghiên cứu một cách đầy đủ bằng cách so sánh giữa vốn lưu động và nhu cầu vốn lưu động. Vậy nhu cầu vốn lưu động là gì?

Nhu cầu vốn lưu động là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng dự trữ và các khoản phải thu (tài sản lưu động không phải là tiền).

Nhu cầu vốn lưu động = Dự trữ + Khoản phải thu - Nợ ngắn hạn (3.20)

Như vậy, nhu cầu vốn lưu động phụ thuộc vào ba tham số: dự trữ, tồn kho và sản phẩm dở dang; nợ phải thu; nợ ngắn hạn. Nhưng tầm quan trọng của ba tham số này thay đổi theo tính chất của ngành và mức độ hoạt động, điều kiện quản lý và những biến động giá cả. Vì vậy, ta cần phải xem xét sự biến động của nhu cầu vốn lưu động theo tính chất của ngành và mức độ hoạt động, điều kiện quản lý và những biến động giá cả.

- Nhu cầu vốn lưu động và tính chất của ngành mà doanh nghiệp hoạt động: có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhu cầu vốn lưu động và giá trị gia tăng do doanh nghiệp tạo ra. Các doanh nghiệp có giá trị gia tăng thấp và chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn (ngành thương mại) thì nhu cầu vốn lưu động nhỏ thậm chí âm do dự trữ ít và tận dụng được nguồn kinh phí từ bán chịu của nhà cung cấp. Các doanh nghiệp có giá trị gia tăng cao và chu kỳ sản xuất dài thường có nhu cầu vốn lưu động lớn. Đó là các doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu trong thời gian dài và khối lượng tồn kho lớn (doanh nghiệp ngành công nghiệp). Tuy nhiên một số doanh nghiệp có thể giảm vốn lưu động bằng cách yêu cầu khách hàng ứng trước cho những hợp đồng mà họ đang thực hiện.

- Nhu cầu vốn lưu động và mức độ hoạt động diễn ra theo chu kỳ: nợ phải thu từ khách hàng và nợ phải trả đối với nhà cung cấp gần như tỷ lệ thuận với doanh thu. Tuy nhiên, dù tình hình tiêu thụ bị chậm lại thì nhu cầu vốn lưu động cũng không giảm

ngay vì những đơn đặt hàng đã ký kết không thể huỷ bỏ, dự trữ và tồn kho vẫn tăng do tốc độ bán hàng chậm lại.

- Nhu cầu vốn lưu động và sự biến động giá cả: trong thời kỳ lạm phát, nhu cầu vốn lưu động tăng vì việc tăng nợ phải trả không đủ bù đắp mức tăng các khoản tồn kho và nợ phải thu, nhất là trong ngành công nghiệp. Tình trạng đó làm cho các doanh nghiệp phải vay mượn nhiều hơn để tài trợ cho các nhu cầu vốn lưu động.

- Nhu cầu vốn lưu động và quản lý: quản lý tồn kho cũng như quản lý bán chịu cho khách hàng là tiền đề làm tăng hay giảm nhu cầu vốn lưu động. Khi tốc độ vòng quay dự trữ tăng để giảm dự trữ cũng như tăng cường nhận ứng trước của khách hàng sẽ góp phần làm giảm nhu cầu vốn lưu động và ngược lại.

Nhu cầu vốn lưu động có thể nhận các giá trị sau :

- Nhu cầu vốn lưu động > 0: tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần có biện pháp để giải phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu từ khách hàng.

- Nhu cầu vốn lưu động = 0: tức là các nguồn vốn từ bên ngoài vừa đủ để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp.

- Nhu cầu vốn lưu động < 0: tức là các nguồn vốn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận thêm nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.

3.3.2.3. Phân tích dòng ngân quỹ của doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, tiền của doanh nghiệp là một yếu tố rất quan trọng. Ở một thời điểm nhất định, tiền chỉ phản ánh và có ý nghĩa như một hình thái biểu hiện của tài sản lưu động; nhưng trong quá trình kinh doanh, sự vận động của tiền được xem là hình ảnh trung tâm của hoạt động kinh doanh, phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về dòng tiền của doanh nghiệp rất hữu dụng trong việc cung cấp cho người sử dụng một cơ sở để đánh giá khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng dòng tiền đó. Ngoài ra, nó còn giúp doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính ngắn hạn, dự báo các dòng tiền phát sinh để chủ động trong đầu tư hoặc huy động vốn tài trợ. Chính vì thế, trong hệ thống báo cáo tài chính phải có bản báo cáo bắt buộc để công khai về sự vận động của tiền thể hiện được lượng tiền doanh nghiệp đã thực thu trong kỳ kế toán.

Trong quản lý ngân quỹ người ta quan tâm đến chu kỳ vận động của tiền mặt. Chu kỳ vận động của tiền mặt là độ dài thời gian từ khi thanh toán tiền mua nguyên

vật liệu (NVL) đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán sản phẩm cuối cùng, nó được tính bằng công thức sau:


Chu kỳ vận động của tiền

Thời gian vận

=

động của NVL

Thời gian thu hồi

+

các khoản phải thu

Thời gian chậm trả

-

các khoản phải trả


(3.21)


Công thức trên cho thấy chu kỳ tiền mặt cũng là một chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp.



Thời gian vận động của nguyên vật liệu =

Hàng tồn kho bình quân Doanh thu thuần


x N (3.22)



Thời gian thu hồi các khoản phải thu =

Khoản phải thu bình quân Doanh thu thuần


x N (3.23)



Thời gian chậm trả các khoản phải trả =

Khoản phải trả bình quân Doanh thu thuần


x N (3.24)

Trong đó: N là số ngày trong kỳ (thường tính là 360 ngày)

Mục tiêu doanh nghiệp là rút ngắn chu kỳ vận động của tiền. Chu kỳ này càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài càng lớn và mỗi nguồn tài trợ đều có chi phí.

Để phân tích tài chính đạt được hiệu quả tốt nhất các nhà phân tích tài chính phải biết kết hợp giữa phân tích các tỷ số và phân tích tình hình hoạt động tài chính doanh nghiệp thì mới đưa ra tổng thể tình hình tài chính.

3.3.2.4. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian

Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian là kỹ thuật phân tích để xác định xu hướng thay đổi của từng khoản mục trong báo cáo tài chính. Đối với báo cáo kết quả kinh doanh, phân tích được thực hiện bằng cách tính và so sánh tỷ trọng của từng khoản mục so với doanh thu qua các năm. Đối với bảng cân đối kế toán, việc tính toán và so sánh các khoản mục tài sản được thực hiện so với tổng tài sản, các khoản mục nguồn vốn được thực hiện so với tổng nguồn vốn. Phân tích các chỉ tiêu tài chính được thực hiện đối với báo cáo kết quả kinh doanh như sau:

Bảng 3.4: Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian



Khoản mục

Giá trị

Tỷ trọng

Năm N-1

Năm N

Năm N-1

Năm N

1. Doanh thu thuần





2. Giá vốn hàng bán





3. Lợi nhuận gộp





4. Doanh thu tài chính





5. Chi phí tài chính

- Chi phí lãi vay





6. Chi phí bán hàng





7. Chi phí quản lý doanh nghiệp





8. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh





9. Lợi nhuận khác





10. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay

(EBIT)





11. Lợi nhuận trước thuế





12. Thuế thu nhập doanh nghiệp





13. Lợi nhuận sau thuế





14. Lợi nhuận không phân phối





Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

Tài chính doanh nghiệp - 12

3.3.3. Phân tích tài chính DUPONT

Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy, nó còn được gọi là phương pháp Dupont. Với kỹ thuật phân tích này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phân tích tài chính Dupont là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như doanh lợi tài sản (ROA), doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp.

Trước hết ta xem xét mối quan hệ giữa tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) với tỷ số doanh lợi tài sản (ROA):

ROA = Lợi nhuận sau thuế x Doanh thu thuần= Lợi nhuận sau thuế(3.25) Doanh thu thuần Tổng tài sản TB Tổng tài sản TB


Tỷ số trên cho thấy tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào hai yếu tố:

- Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu.

- Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.

Tiếp theo, ta xem xét tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE):

- Nếu tài sản của doanh nghiệp chỉ được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau vì khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn.


ROA = Lợi nhuận sau thuế= Lợi nhuận sau thuế= ROE Tổng tài sản TB Vốn chủ sở hữu TB

- Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE:


ROE = Tổng tài sản TB x ROA (3.26) Vốn chủ sở hữu TB

Kết hợp (3.25) & (3.26) ta có:


ROE = Lợi nhuận sau thuế x Doanh thu thuầnx Tổng tài sản TB Doanh thu thuần Tổng tài sản TB Vốn chủ sở hữu TB


= Lợi nhuận sau thuếx Doanh thu thuầnx Tổng tài sản TB Doanh thu thuần Tổng tài sản TB (Tổng tài sản-Nợ) TB


= Doanh lợi doanh thu

x Hiệu suất sử dụng

tổng tài sản

x 1 (3.27)

1 - Hệ số nợ


Phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn chủ sở hữu vào doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, hiệu suất sử dụng tổng tài sản và hệ số nợ.

Từ đây ta thấy sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận càng cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp đang bị lỗ thì sử dụng nợ càng tăng số lỗ.

Phân tích tài chính Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có thể dựa

vào hệ thống các chỉ tiêu theo phân tích Dupont để tìm ra nguyên nhân chính xác. Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà phân tích nếu biết kết hợp phân tích tỷ số và phân tích Dupont sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp.

3.4. HẠN CHẾ CỦA PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp nhiều thông tin hữu ích liên quan đến hoạt động và tình hình tài hcinhs của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phân tích báo cáo tài chính có những hạn chế cần xem xét:

- Có nhiều doanh nghiệp lớn, hoạt động đa ngành, thậm chí hoạt động trong những ngành rất khác nhau nên rất khó xây dựng và ứng dụng hệ thống tỷ số trung bình ngành có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này. Do đó, phân tích báo cáo tài chính thường chỉ có ý nghĩa đối với công ty nhỏ và không có hoạt động đa ngành.

- Lạm phát có thể ảnh hưởng xấu và làm sai lệch các thông tin tài chính được ghi nhận trên các báo cáo tài chính khiến cho việc tính toán các tỷ số phân tích tài chính trở nên sai lệch.

- Các yếu tố thời vụ cũng làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp và khiến cho các tỷ số tài chính có xu hướng thay đổi bất thường. Ví dụ: vào mùa vụ khiến cho hàng tồn kho tăng cao hơn bình thường, nếu sử dụng tỷ số vòng quay hàng tồn kho sẽ thấy công ty có vẻ hoạt động kém hiệu quả.

- Các tỷ số tài chính được xây dựng và tính toán từ báo cáo tài chính nên mức độ chính xác của nó phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và nguyên tắc thực hành kế toán. Tuy nhiên, nguyên tắc thực hành kế toán có thể khác nhau giữa các công ty, các ngành và các quốc gia. Do đó, thực hành kế toán có thể làm sai lệch đi các tỷ số tài chính.

- Các nhà quản lý có thể lợi dụng nguyên tắc thực hành kế toán để chủ động tạo ra các báo cáo tài chính và qua đó tạo ra các tỷ số tài chính như ý muốn khiến cho phân tích báo cáo tài chính không còn là công cụ đánh giá và kiểm soát khách quan.

- Đôi khi, doanh nghiệp có vài tỷ số rất tốt nhưng vài tỷ số khác lại rất xấu khiến cho việc đánh giá chung tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên khó khăn và kém ý nghĩa.

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí