Tình Hình Quản Lý Và Đánh Giá Rủi Ro Thiên Tai Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam:


Ngoài ra, các loại hình thiên tai mang tính tiềm ẩn như siêu bão, động đất, sóng thần tuy chưa xảy ra nhưng cũng đang được quan tâm. Bộ TMMT đã xác định: tỉnh Bình Định có khả năng chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc đổ bộ của những cơn siêu bão cấp 15, 16 với nguy cơ nước biển dâng tổng cộng trong bão có thể lên tới 3,0 - 3,2 m. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã nghiên cứu nhiều tổ hợp bão - nước biển dâng khác nhau và xác định kịch bản bất lợi nhất với Bình Định là bão mạnh cấp 16 đổ bộ vào phía Nam tỉnh, kèm theo nước biển dâng tới trên 2,5 m.

2.2.2.3. Tác động của BĐKH tại tỉnh Bình Định:


Cũng như các tỉnh trong khu vực Duyên hải miền Trung, Bình Định cũng sẽ bị ảnh hưởng và tác động của BĐKH. Theo kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH tỉnh Bình Định trong khuông khổ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH Việt Nam - Văn phòng điều phối BĐKH tỉnh Bình Định (CCCO), thì Bình Định có cơ cấu lao động trong nông nghiệp, phát triển và định hướng tập trung vào nông nghiệp, công nghiệp thủy sản và dịch vụ, tỉnh có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên và biển, phía đông giáp biển, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào nhiều tài nguyên đất đai, tài nguyên tự nhiên. Do những đặc điểm trên, BĐKH sẽ tác động nhiều mặt đến kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống người dân.

BĐKH làm gia tăng tần suất và cường độ thiên tai như bão, lũ, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng... và có thể trở thành thảm họa, gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế, xã hội hoặc xóa đi những thành quả nhiều năm của sự phát triển.

2.2.3. Tình hình quản lý và đánh giá rủi ro thiên tai trên thế giới và ở Việt Nam:

Để thực hiện công tác QLRRTT, dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ của các cấp chính quyền, Ban chỉ huy PCTT và TKCN các cấp, thì việc đánh giá RRTT là hết sức quan trọng, là nền tảng cho việc thực hiện QLRRTT tại cộng đồng.

QLRRTT dựa vào cộng đồng là một quá trình trong đó người dân trong cộng đồng chủ động và tham gia tích cực vào việc xác định và phân tích các RRTT, lập


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

kế hoạch, thực hiện, theo dõi và đánh giá các hoạt động nhằm, thích nghi của cộng đồng với tác động của thiên tai, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH (DMC, 2015).

2.2.3.1. Thực tiễn quản lý và đánh giá rủi ro thiên tai trên thế giới:

Sự tham gia của người dân trong quản lý rủi ro thiên tai trên địa bàn tỉnh Bình Định - 5


Quản lý và đánh giá rủi ro theo cách tiếp cận dựa vào cộng đồng đã được nhiều tổ chức, cá nhân ứng dụng trong nghiên cứu giảm nghèo. Tại Châu Âu, cuối thế kỷ 20, phương pháp phát triển cộng đồng có sự tham gia (PCD) đã được sử dụng ở Trung Âu, nơi các hội ngành đang phải đối mặt với những khó khăn mà không có được sự hỗ trợ cần thiết. Cùng lúc đó, nghèo khó đã gia tăng ra nhiều tập đoàn. Đầu những năm 2000, 9 Hiệp hội đã cùng sử dụng một phương pháp luận gọi là phát triển cộng đồng có sự tham gia để lấy lại sức sống cho ngành hàng của họ. PCD là cách để giải quyết các vấn đề của con người tại các địa phương. Sau này chúng cũng được áp dụng để đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực ứng phó với thiên tai và trở thành VCA.

Tại Mỹ Latinh, ban đầu phương pháp xây dựng chương trình có sự tham gia của cộng đồng là một phương pháp làm việc ở cấp cơ sở để giải quyết các vấn đề chưa liên quan trực tiếp đến thiên tai. Phương pháp này càng ngày càng lôi kéo được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng nhằm xử lý những bất cập và giảm tình trạng dễ bị tổn thương cho người dân trong cộng đồng. Nó thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên liên quan trong và ngoài cộng đồng và thúc đẩy sự hợp tác giữa chính quyền trung ương và địa phương, các tổ chức tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ (IFRC, 2006).

Đến những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi thiên tai và BĐKH tác động ngày càng lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân tại nhiều nơi trên thế giới thì cách tiếp cận VCA này lại được sử dụng để nghiên cứu về những RRTT mà các cộng đồng gặp phải.

Năm 2003, tại Rwanda, Hội Chữ thập đỏ Rwanda đã sử dụng công cụ VCA để đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực ứng phó với các vấn đề địa lý và kinh tế - xã hội của cộng đồng tại các địa phương trên cả nước (IFRC, 2003).


Năm 2007, tại các nước Châu phi, IPCC đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác động, tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng của người dân Châu Phi trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Nghiên cứu này đã chỉ ra những tác động và tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra tại các quốc gia Châu Phi trên các khía cạnh nguồn nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp, hệ sinh thái, vùng ven biển, du lịch, lắng đọng trầm tích, công nghiệp và cơ sở hạ tầng, nhất là tại Ai Cập.

Tại Châu Á, từ đầu thế kỷ 21, phương pháp VCA được sử dụng ngày càng phổ biến và mang lại kết quả thiết thực.

Tại Philippin, từ những năm 2000, Tổ chức Oxfam đã hướng dẫn và phối hợp với người dân và chính quyền nước này đánh giá VCA tại nhiều địa phương trong cả nước với cách tiếp cận dựa vào cộng đồng trên cơ sở gắn kết giữa giảm nhẹ thiên tai và phát triển. Cách làm này đã giúp các cộng đồng dễ bị tổn thương tại Philippin có được cuộc sống an toàn và ổn định hơn trước, trong và sau thiên tai. Mặc dù vậy tính hiệu quả vẫn còn hạn chế.

Năm 2003, Chương trình sử dụng bền vững và bảo vệ đa dạng sinh học đất ngập nước Mê Kông phối hợp với Trung tâm Sẵn sàng Ứng phó với Thảm họa Châu Á đã thực hiện nghiên cứu Đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương từ những rủi ro khí hậu tại tỉnh Attapeu. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Từ đánh giá này đã chỉ ra được những rủi ro do khí hậu tác động đến các cộng đồng dễ bị tổn thương trong khu vực và đưa ra những khuyến nghị kịp thời.

Tại Ấn Độ, từ năm 2011 đến nay, đánh giá hiểm họa, tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai đã được Cơ quan Quản lý thiên tai Quốc gia và các Dự án sử dụng ngày càng phổ biến để đánh giá cho nhiều cộng đồng dễ bị tổn thương như: Bihar, Andaman, Nicobar, Islands, Kashmir, Kerala and Tamil, Nadu.Từ đó xây dựng các kế hoạch ứng phó tối ưu nhất.

Năm 2012, Bobenrieth và cộng sự đã tiến hành VCA tại tỉnh Koh Kong và Kampot - Vương quốc Cambodia giúp nâng cao nhận thức cộng đồng và đề xuất các giải pháp để giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương và tăng cường năng lực cho


các địa phương căn cứ vào kết quả nghiên cứu và đặc thù địa phương (VNRC, 2010).

Đánh giá HVCA là nội dung đánh giá được bổ sung, phát triển từ VCA mà nhiều tổ chức nghiên cứu trên thế giới sử dụng để điều tra, nghiên cứu về một cộng đồng nhất định. Đối với VCA, mục đích quan trọng nhất là đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực phòng tránh và giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Đối với HVCA, ngoài 2 nội dung đánh giá như VCA còn chú trọng việc đánh giá hiểm họa tự nhiên tại khu vực nghiên cứu. Mặc dù chưa đầy đủ như HVCA nhưng VCA cũng mang lại những tiền đề quan trọng góp phần giảm nhẹ thiên tai tại nhiều nơi trên thế giới nhất là tại các quốc gia đang phát triển thuộc Châu Phi và Châu Á.

2.2.3.2. Đánh giá rủi ro thiên tai có sự tham gia của người dân (dựa vào cộng đồng) tại Viêt Nam:

Tại Việt Nam, từ những năm 1990 và đầu những năm 2000 đến nay, với sự tiên phong của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và các tổ chức xã hội dân sự, VCA đã được áp dụng trong nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu sao cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện của đất nước. Trước đây các nghiên cứu VCA chủ yếu do Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và các Hội Chữ thập đỏ tỉnh triển khai và thực hiện đánh giá chỉ mới chú trọng đến thiên tai mà chưa đề cấp đến biến đổi khí hậu. Mặt khác, nhiều cuộc đánh giá, mức độ triển khai đánh giá còn chưa triệt để, và chưa đánh giá đúng mức các đối tượng dễ bị tổn thương nhất là trẻ em, người khuyết tật. Hiện nay, Bộ NNPTNT và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã nghiên cứu, ban hành tài liệu hướng dẫn đánh giá VCA mang tính toàn diện hơn, trong đó có phân tích các yếu tố tác động do BĐKH.

Mặc dù là đã có sự chuyển biến về nội dung và phương pháp tiến hành theo thời gian. Tuy nhiên, để đảm bảo việc đánh giá ngày càng khách quan, đầy đủ và chính xác đòi hỏi chúng ta không chỉ đánh giá được tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực của người dân mà còn phải phải đánh giá cụ thể sự tác động của các loại hiểm họa tự nhiên trên địa bàn nghiên cứu dưới ảnh hưởng của BĐKH. Trong đánh


giá này, các loại hiểm họa và tác hại của chúng được tập trung thảo luận sâu cùng với việc phân tích kỹ tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai.

2.2.3.3. Công tác PCTT và đánh giá rủi ro thiên tai có sự tham gia của người dân tại tỉnh Bình Định:

Trước tình hình thiên tai và BĐKH diễn biến hết sức phức tạp và khó lường trên địa bàn tỉnh, Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bình Định đã có nhiều nỗ lực trong việc ứng phó với những thách thức do thiên tai và BĐKH. Năm 2007, UBND tỉnh đã ban Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về ngăn ngừa, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020; Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia và kịch bản ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010 - 2015 tầm nhìn 2020, và năm 2013 UBND tỉnh ban hành quyết định triển khai thực hiện Đề án 1002 của Thủ tướng chính phủ về Nâng cao nhận thức cho người dân trong QLRRTT dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh.

Ban chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh được thành lập và phân công nhiệm vụ cụ thể từng thành viên. Các sở, ngành, địa phương đã thành lập Ban Chỉ huy PCTT và TKCN, triển khai công tác chuẩn bị PCTT và TKCN ở đơn vị, trên địa bàn. Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an tỉnh là lực lượng chủ yếu trong công tác TKCN trong tỉnh. Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh hằng năm có kế hoạch hiệp đồng các đơn vị chủ lực của Quân khu, các đơn vị của Bộ đóng trên địa bàn tổ chức lực lượng, phương tiện, phân công khu vực đảm nhiệm thực hiện nhiệm vụ TKCN theo kế hoạch thống nhất của địa phương. Các địa phương có phương án huy động lực lượng trên địa bàn. Ở huyện, huy động lực lượng công an, bộ đội và Đoàn thanh niên.Ở xã, huy động đoàn viên thanh niên, dân quân, tự vệ.Các đội xung kích ở cấp xã, phường có 30 - 40 người.Ngoài ra, còn có kế hoạch huy động nhân lực, phương tiện của các doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ đóng trên địa bàn.

Theo Báo cáo khảo sát về năng lực phòng chống thiên tai - Dự án Phòng chống ngập úng và thoát nước tại thành phố Quy Nhơn, do Hội Chữ thập đỏ tỉnh


thực hiện, Hội Chữ thập đỏ Đức và Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) tài trợ (2013 - 2015), thì hàng năm từ tỉnh, huyện, thành phố và phường, xã đều có lập kế hoạch PCTT và TKCN chung cho từng cấp. Nhiều sở, ban, ngành cũng có lập kế hoạch riêng cho đơn vị mình. Tuy nhiên, tiến trình lập kế hoạch còn mang nặng tính 1 chiều từ trên xuống, kế hoạch năm sau kế thừa năm trước. Hiện nay, vẫn chưa có mẫu thống nhất chung đồng bộ cho các cấp về tiến trình, nội dung và hình thức của các kế hoạch PCTT, đặc biệt là ở cấp phường xã. Đa số cán bộ trong Ban chỉ huy PCTT ở các cấp vẫn còn kiêm nhiệm, nên nhiều thành viên đã không được đào tạo kỹ về kiến thức chuyên môn trong Quản lý thiên tai, đặc biệt là ở cấp phường xã. Thêm vào đó, thông tin dự báo chưa thực sự có độ tin cậy cao cũng đã gây khó khăn cho người lập kế hoạch. Các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của công tác lập kế hoạch cũng như chất lượng của bản kế hoạch tập trung chủ yếu đó là: Sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ thường xuyên của cấp trên; tăng cường công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia vào tiến trình lập kế hoạch; nâng cao khả năng cũng như chất lượng của các dự báo; sự phối hợp đồng bộ và hiệu quả trong Ban chỉ huy PCTT; mẫu hướng dẫn thống nhất về nội dung và hình thức, phương án ứng phó cho từng loại hình thiên tai tại địa phương; lập kế hoạch từ dưới lên, thường xuyên và kịp thời nắm bắt diễn biến thời tiết và các thông tin số liệu liên quan để điều chỉnh kế hoạch kịp thời và hiệu quả; nâng cao kỹ năng xây dựng kế hoạch, phân công bộ phận lập kế hoạch theo đúng chức năng và nhiệm vụ; các ngành phải lập kế hoạch riêng; cần phải dự phòng ngân sách cho PCLB để chủ động hơn trong công tác PCTT và TKCN. Kế hoạch thường được triển khai ngay trong họp tổng kết hàng năm. Trước khi thiên tai (bão lụt) xảy ra, tùy theo tình hình cụ thể của loại thiên tai đó mà kế hoạch ứng phó thường được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh địa phương. Mặc dù vậy, trong quá trình ứng phó, Ban chỉ huy PCTT các cấp cũng gặp khá nhiều khó khăn. Điển hình là nguồn lực địa phương còn hạn chế (về kinh phí, về nhân lực như đội ứng phó nhanh chưa được đào tạo chuyên nghiệp, đặc biệt là ở cấp phường xã, và về vật lực như thiếu các trang thiết bị ứng phó), cơ chế phối hợp ngang và dọc còn thiếu chặt chẽ và ý thức cũng như khả năng ứng phó cộng đồng


còn hạn chế. Các giải pháp chính được đề xuất để nâng cao tính hiệu quả trong công tác triển khai kế hoạch là: Kiện toàn bộ máy chuyên trách, bồi dưỡng đào tạo chuyên môn trong công tác ứng phó cho các cán bộ chuyên trách; nâng cấp các công cụ hỗ trợ dự báo và truyền tin, tăng cường huy động tối đa nguồn lực cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra và giám sát thường xuyên việc triển khai kế hoạch; từng bước cân đối kinh phí và bổ sung các trang thiết bị ứng phó cần thiết, thành lập đội ứng phó TKCN chuyên nghiệp; chủ động kinh phí và vận động các nguồn tài trợ ngoài địa phương. Trong công tác di dời, để đảm bảo an toàn tính mạng cho những người dân sống trong vùng nguy cơ, nhiều thành viên đề xuất thực hiện các biện pháp chế tài mạnh đối với các hộ gia đình không chịu di dời. Tuy nhiên, tốt nhấtvẫn nên đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhười dân để họ tự thay đổi suy nghĩ, hành vi của mình; làm cho người dân từ “ỷ lại và trông chờ hỗ trợ từ bên ngoài” sang “chủ động ứng phó và bảo vệ tính mạng bản thân và gia đình”.

Trước những hạn chế nói trên, một số hoạt động phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai và QLRRTT với sự tài trợ của trung ương, các tổ chức quốc tế, ngân hàng thế giới, các tổ chức phi chính phủ được triển khai trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, các hoạt động này chủ yếu tập trung vào các giải pháp công trình như cải thiện các hệ thống đê điều, hồ đập. Bên cạnh đó, hiện có một số hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng là dự án về CBDRM tại huyện Tuy Phước, Phù Cát, Hoài Ân và thị xã An Nhơn, do Hội Chữ thập đỏ Na Uy tài trợ (giai đoạn 2010 - 2014); Dự án Phòng chống ngập úng và thoát nước tại thành phố Quy Nhơn, do Hội Chữ thập đỏ Đức và Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Dự án Diphicho 8 do Hội Chữ thập đỏ Hà Lan tài trợ tại huyện Hoài Nhơn (2013); Dự án Phục hồi, quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn đầm Thị Nại, Lá chắn Xanh, triển khai tại thành phố Quy Nhơn; dự án WB3 do Ngân hành Thế giới tài trợ tại huyện Tuy Phước và thị xã An Nhơn… với tổng kinh phí tài trợ hàng trăm tỷ đồng. Qua đó, đã có hàng ngàn lược cán bộ từ cấp tỉnh đến cấp thôn được tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và khả năng trong công tác PCTT và QLRRTT. Tuy nhiên, những kết quả đạt được so với yêu cầu còn


khiêm tốn vì tỉnh Bình Định có đến 90 xã, phường trọng điểm về thiên tai, nhất là thiên tai bão lũ.

2.2.3.4. Khái quát tình trạng dễ bị tổn thương ở tỉnh Bình Định:

Toàn tỉnh có 86.000 nhân khẩu/20.400 hộ thuộc 110 xã, phường của 11 huyện, thị xã, thành phố nằm trong vùng thiên tai nguy hiểm (Vùng ven biển có

36.000 nhân khẩu/8.100 hộ của 28 xã, phường thuộc các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn) cần có nhà ở kiên cố hoặc tái định cư về nơi an toàn. Huyện Tây Sơn có trên 12 khu dân cư với trên 3.200 hộ/

22.400 nhân khẩu ở 10 vùng trũng thấp, ven sông suối, hàng nghìn nhà tạm, đơn sơ rất dễ bị đe dọa khi có gió bão, lũ lụt. Ngành Giáo dục và Đào tạo có trên 21.000 cán bộ, giáo viên với trên 33.000 học sinh trên địa bàn tỉnh. Trong đó, trên 65% cán bộ, giáo viên là nữ; học sinh mầm non trên 54.000, tiểu học trên 124.000, trung học cơ sở trên 94.000. Đây là đối tượng dễ bị tổn thương khi có thiên tai xảy ra.

Toàn tỉnh còn gần 40% nhà bán kiên cố và đơn sơ tập trung vùng nông thôn, ven biển. Đây là vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của bão lũ nên nhà cửa là đối tượng cần quan tâm để tăng cường khả năng chống chịu trước thiên tai.

2.2.3.5. Nhận định về nguy cơ những loại hình thiên tai (lụt bão) có thể xảy ra trong thời gian tới:

Theo báo cáo của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, hiện nay BĐKH dẫn tới những thay đổi trong tần suất, cường độ, phạm vi không gian, thời đoạn và thời gian của các hiện tượng thời tiết và khí hậu cực đoan và có thể dẫn tới đến các hiện tượng thời tiết và khí hậu khăc nghiệt chưa từng thấy.

Dự tính số lượng bão hoạt động ở Biển Đông và ảnh hưởng đến Việt Nam vào giữa cuối thế kỷ 21 có thể giảm về tần suất nhưng tăng về cường độ, gần như chắc chắn số lượng bão mạnh có xu thế tăng. Mùa bão kết thúc muộn hơn và đường đi của bão có xu thế dịch chuyển về phía Nam, tốc độ gió trong những cơn bão có thể tăng nhẹ. Tần suất mưa lớn dự tính sẽ tăng trong thế kỷ 21 ở nhiều vùng của Việt Nam, mưa lớn sẽ tăng rủi ro sạt lở đất ở các khu vực miền núi. Sự thay đổi lượng

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí