Năm 1998, tác giả Nguyễn Thị Côi xuất bản cuốn sách: Bảo tàng lịch sử cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường THPT [10] (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội) đã đề cập đến vấn đề sử dụng bảo tàng cách mạng trong dạy học lịch sử. Tác giả đã chỉ ra những yêu cầu cụ thể và những nguyên tắc cần tuân thủ trong dạy học bộ môn đồng thời hướng dẫn cụ thể về việc tổ chức hoạt động tham quan, học tập, ngoại khóa tại các bảo tàng nói riêng và các di sản nói chung để đạt hiệu quả giáo dục cao, giúp bài giảng thêm sinh động, giúp HS lĩnh hội tri thức.
Tác giả Đỗ Hồng Thái với cuốn Dạy học lịch sử địa phương ở Việt Bắc và Tây Bắc đã tập trung làm sáng tỏ các khái niệm về lịch sử địa phương, xác định rõ đối tượng nghiên cứu và mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc bên cạnh đó tác giả còn dành một phần để hướng dẫn chi tiết các nội dung thiết thực cần thực hành, rèn luyện các kỹ năng sưu tầm, xử lý tư liệu, biên soạn và dạy học lịch sử địa phương, xây dựng lịch sử nhà trường, phòng truyền thống [30].
Trong các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ, vấn đề sử dụng di sản hay các dạng cụ thể của di sản như: di sản văn hóa, di tích lịch sử, di tích quốc gia đặc biệt đã được nghiên cứu thành công và công bố rộng rãi. Tiêu biểu là luận án tiến sĩ năm 2014 của tác giả Trần Vân Anh “Nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Phú Thọ” [1]; năm 2018 tác giả Nguyễn Thị Vân “Sử dụng di sản văn hóa tại địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam, lớp 10 THPT tỉnh Thanh Hóa”[33]. Năm 2019 tác giả Phạm Thị Thanh Huyền với vấn đề “Sử dụng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt tại Hà Nội trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT” [14]…và một số bài báo khoa học, công trình nghiên cứu như: Giáo dục ý thức tôn trọng, bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa cho học sinh phổ thông qua môn Lịch sử (Tạp chí Giáo dục số 308, Kỳ 2-4/2013) [11] của tác giả Hoàng Thanh Hải; tác giả Phạm Văn Mạo: Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học - Biện pháp nâng cao hiệu quả bài
học lịch sử ở trường phổ thông (Tạp chí Giáo dục số 354, Kỳ 2-3/2015) [23]. Các tác giả Dương Quỳnh Phương và Đỗ Văn Hảo với bài viết Di sản và vấn đề giáo dục di sản cho học sinh trung học phổ thông(Tạp chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ - số 55/2019) [27]…Ở những khía cạnh khác nhau, các tác giả đã cho thấy thực tiễn của việc sử dụng di sản trong dạy học lịch sử, phân tích lý luận của vấn đề và chỉ ra những hình thức và biện pháp sử dụng các loại di sản một cách hiệu quả.
Để giúp HS có những hiểu biết cơ bản về những giá trị của di sản qua đó giáo dục cho các em ý thức giữ gìn, bảo vệ các di sản đó đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện trong dạy học hiện nay từ phương pháp dạy học đến đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã biên soạn và xuất bản cuốn tài liệu “Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông” [8]. Đây là cuốn tài liệu có nội dung tổng hợp gồm lý luận về vấn đề sử dụng di sản trong dạy học và phần các ví dụ minh họa. Cuốn tài liệu đã trở thành nguồn tài liệu tham khảo quý giá và trở thành của các giáo viên trong quá trình dạy học.
Để đáp ứng nhu cầu tham khảo, biên soạn lịch sử địa phương cũng như nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho GV, HS phổ thông trong tỉnh Cao Bằng về những giá trị của CVĐCTC UNESO Non Nước Cao Bằng, Sở Giáo dục và Đào tạo Cao Bằng đã ban hành tài liệu Tuyên truyền, giáo dục về CVĐCTC UNESCO Non nước Cao Bằng trong các trường phổ thông tỉnh Cao Bằng [28], cuốn sách gồm hai phần chính. Phần thứ nhất nêu lên những nét khái quá về CVĐCTC và CVĐCTC UNESCO Non Nước Cao Bằng, đồng thời khẳng định các giá trị địa chất - địa mạo; giá trị lịch sử văn hóa và đa dạng sinh học của CVĐCTC UNESCO Non Nước Cao Bằng. Phần thứ hai cuốn sách đã chỉ ra những nội dung cụ thể trong công tác bảo tồn, phát triển các giá trị vốn có của CVDDCTC. Trong đó nhấn mạnh vai trò của các đơn vị trường học “Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về CVĐCTC UNESCO Non
nước Cao Bằng cho giáo viên, học sinh. Đối với giáo viên: Nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc tuyên truyền giáo dục về CVĐCTC UNESCO Non Nước Cao Bằng thông qua các hoạt động ngoại khóa, dạy học lồng ghép, tích hợp trong các môn học…” [28, tr.39]
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã chỉ ra những vấn đề lý luận cơ bản và quý báu để chúng tôi tham khảo, đi sâu nghiên cứu, gợi ý cho chúng tôi những cách thức làm việc với di sản để đem lại hiệu quả cao nhất là trên phương diện dạy học. Có thể rút ra những vấn đề luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu như sau:
Di sản có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục nói chung và môn lịch sử nói riêng. Đối với hoạt động dạy học bộ môn, di sản chính là một dạng phương tiện dạy học tối ưu. Di sản vừa có ý nghĩa là tài liệu trực quan đặc biệt, vừa có ý nghĩa là môi trường giáo dục. Theo đó để có một môi trường giáo dục hiệu quả cần hội tụ đủ các yếu tố như: HS chủ động tham gia vào một quá trình học cùng với những thành viên khác, là nơi người học được giúp đỡ để hoàn thành nhiệm vụ học tập và đáp ứng nhu cầu nhận thức của mỗi cá nhân, các hoạt động học tập được thực hiện với không khí vui vẻ, thoải mái nhất. Môi trường học tập với các di sản có lợi thế trong việc gắn kết lý thuyết với thực hành, góp phần nâng cao tính trực quan, tránh hiện đại hóa lịch sử, giúp HS tiếp cận với các sự kiện hiện tượng trên nhiều phương diện. Được trực tiếp quan sát các hiện vật tại di sản sẽ tác động trực tiếp đến xúc cảm và nhận thức của HS do đó di sản có thể được sử dụng như là phương tiện điều khiển quá trình nhận thức của HS. Những gợi ý đó giúp cho hoạt động tham quan trở nên có ý nghĩa và làm cho bài học trở nên sống động hơn.
Với ý nghĩa là tài liệu trực quan đặc biệt, di sản trở thành công cụ để tái tạo kiến thức lịch sử, hình thành biểu tượng và là phương tiện quan trọng giúp HS hình thành khái niệm về sự kiện, hiện tượng, được tri giác các hiện vật tại di sản làm cho giai đoạn nhận thức cảm tính, sự tri giác các đối tượng, hiện tượng là điều kiện để HS phát sinh cảm giác, tạo nên biểu tượng về chúng và
Có thể bạn quan tâm!
- Sử dụng di sản Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường Trung học phổ thông - 1
- Sử dụng di sản Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường Trung học phổ thông - 2
- Vai Trò Và Ý Nghĩa Của Di Sản Đối Với Hoạt Động Dạy Học, Giáo Dục Ở Trường Phổ Thông
- Ưu Thế Của Bộ Môn Lịch Sử Trong Giáo Dục Di Sản Ở Trường Phổ Thông
- Nhận Thức Của Gv Về Mục Đích Của Việc Sử Dụng Di Sản Trong Dạy Học Lịch Sử
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
sau đó, nhờ nhận thức lí tính hình thành nên khái niệm hoàn chỉnh về đối tượng, hiện tượng nghiên cứu. Con đường nhận thức của HS “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” trong học tập môn lịch sử khi học tập với các di sản sẽ được phát huy tối ưu, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học và giáo dục bộ môn.
Tuy nhiên, mặc dù đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong quá trình khai thác và sử dụng di sản, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về việc sử dụng di sản CVĐCTC UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT vì vậy vấn đề khai thác giá trị của CVĐCTC UNESCO Non Nước Cao Bằng như thế nào để đem lại hiệu quả dạy học bộ môn đồng thời nâng cao nhận thức và trách nhiệm của HS trước di sản quê hương nhưng lại mang tầm cỡ quốc tế cần thực hiện như thế nào…đây là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ trong luận văn của mình.
Như vậy, sử dụng di sản trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cho người học về trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong thực tiễn cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn. Các tài liệu trên là nguồn tham khảo quý báu đối với chúng tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn. Chúng tôi hy vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương tỉnh Cao Bằng thông qua hệ thống di sản nằm trên tuyến công viên địa chất toàn cầu Non nước Cao Bằng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là quá trình sử dụng di sản Công viên địa chất Toàn Cầu UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sử dụng di sản Công viên địa chất Toàn Cầu UNESCO Non nước Cao Bằng trong Trong dạy học phần lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cho đến nay ở trường THPT tỉnh Cao Bằng.
Thời gian khảo sát, thực nghiệm: năm học 2018-2019; 2019-2020.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học lịch sử, đề xuất các biện pháp sử dụng di sản Công viên địa chất Toàn Cầu UNESCO Non nước Cao Bằng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử Việt Nam cho học sinh THPT tỉnh Cao Bằng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc sử dụng di sản trong dạy học lịch sử.
- Điều tra, phân tích thực trạng sử dụng di sản, trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT, tỉnh Cao Bằng.
- Tìm hiểu chương trình, sách giáo khoa lịch sử, bước đầu tiếp cận chương trình giáo dục bộ môn lịch sử 2018 xác định những giá trị trong hệ thống di sản Công viên địa chất Toàn Cầu UNESCO Non nước Cao Bằng có thể khai thác và sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam
- Đề xuất các biện pháp, hình thức sử dụng di sản Công viên địa chất Toàn Cầu UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT, tỉnh Cao Bằng.
- Tiến hành thực nghiệm, thống kê, đối chiếu số liệu để rút ra kết luận.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục nói chung và dạy học lịch sử nói riêng trong đó có giáo dục di sản ở trường THPT trong bối cảnh đổi mới và hội nhập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: dựa vào những nguồn tài liệu lí luận về tâm lí, giáo dục, phương pháp dạy học bộ môn, chương trình sách giáo khoa…để khái quát cơ sở lý luận thực hiện đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Khảo sát thực trạng dạy học di sản tại một số trường THPT tỉnh Cao Bằng.
+ Điều tra cơ bản, thống kê và xử lí số liệu: sử dụng phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp đối tượng liên quan đến đề tài: giáo viên lịch sử, học sinh tại một số trường trên địa tỉnh Cao Bằng. Thống kê các số liệu, dữ liệu từ kết quả điều tra và phân tích, đánh giá vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Kiểm chứng các biện pháp sư phạm được đề xuất trong luận văn.
6. Giả thuyết khoa học
Việc sử dụng di sản đúng với các biện pháp sư phạm, phù hợp với thực tiễn giáo dục địa phương sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở trường THPT tỉnh Cao Bằng.
7. Đóng góp mới của đề tài
Về mặt lí luận: Tiếp tục khẳng định vai trò và ý nghĩa của di sản trong việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử.
Về mặt thực tiễn: Nâng cao nhận thức về lịch sử địa phương và ý nghĩa của giáo dục di sản, tầm quan trọng của công viên địa chất Non nước Cao Bằng đối với giáo dục; là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên, học sinh và những người yêu thích lịch sử địa phương Cao Bằng.
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông - Lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Một số hình thức và biện pháp sử dụng di sản Công viên địa chất UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT tỉnh Cao Bằng. Thực nghiệm sư phạm.
Chương 1
SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng di sản trong dạy học lịch sử
1.1.1. Quan niệm về di sản và sử dụng di sản trong dạy học
Đã có nhiều công trình, nhiều tác giả nghiên cứu về di sản và vấn đề bảo tồn di sản, do đó có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Trong lời mở đầu Luật di sản văn hóa, Nhà nước ta đã khẳng định: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là bộ phận di sản văn hóa của nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta” [22; tr.11]. Có coi đó là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta trong nhìn nhận, đánh giá vai trò của văn hóa. Nhất là trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế. Trong nghị quyết Trung ương V khóa VIII đã khẳng định: “Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển kinh tế xã hội”. Từ đó thấy được vai trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong giáo dục.
Di sản còn được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, hiểu theo nghĩa đen là tài sản của người đã khuất để lại hoặc là giá trị tinh thần và vật chất của văn hóa thế giới hay một quốc gia một dân tộc vẫn còn được lưu giữ. Theo Từ điển Thuật ngữ Lịch sử phổ thông, di sản là: “của cải vật chất hay tinh thần của người chết hay của thế hệ trước để lại: di sản văn hóa cổ đại” [19, tr.138]. Theo đó, trong phạm vi rộng một quốc gia dân tộc đều có những di sản nhất định, theo nghĩa hẹp hơn mỗi địa phương, mỗi dân tộc trong từng quốc gia cũng có những di sản nhất định. Đó là những giá trị vật chất và tinh thần có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
Hiểu một cách cụ thể di sản là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia… Di sản cũng là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Mặt khác đó còn là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Di sản là tài sản tinh thần hoặc tài sản vật chất do lịch sử để lại hoặc do thiên nhiên tạo ra.
Về cách phân loại di sản, theo tổ chức UNESCO, di sản bao gồm di sản thiên nhiên và di sản văn hóa. Di sản thiên nhiên là di chỉ hay di tích của một quốc gia, như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố. Di sản cũng có nghĩa là tài sản để lại, vật của quá khứ do các nước có tham gia công ước Di sản thế giới đề cử cho Chương trình quốc tế Di sản thế giới, được ghi danh và quản lý bởi UNESCO theo Công ước Di sản thế giới. Theo đó, mọi di sản văn hoá đều có tiềm năng và điều kiện để sử dụng trong dạy học, giáo dục ở trường phổ thông. Từ di sản thế giới, di sản quốc gia đến di sản của địa phương, của cộng đồng; từ di sản văn hoá đến di sản thiên nhiên; từ di sản vật thể đến di sản phi vật thể, di sản thông tin tư liệu…mọi di sản đều có khả năng sử dụng để dạy học, giáo dục trong trường phổ thông với cách khai thác phù hợp và nỗ lực của các GV.
Di sản văn hóa là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo của cộng đồng dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa là bức tranh đa dạng muôn màu, muôn vẻ, là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn hóa và văn minh của nhân loại. Những giá trị đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa và văn minh của nhân loại với nền văn hóa bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam. Do đó di sản văn hóa Việt Nam tồn tại dưới hai dạng: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.