Sự Tham Gia Của Người Dân ( Citizen Engagement)

chính lớn trên thế giới như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế (OECD), Tổ chức Kiểm toán Quốc tế (INTOSAI)… Cùng với đó, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã bổ sung quy định Ngân sách nhà nước được giám sát bởi cộng đồng và giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ trì, phối hợp với thành viên của mặt trận để tổ chức giám sát Ngân sách nhà nước, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính.( Điều 16).

Đối tác Ngân sách Quốc tế (International Budget Partnership) coi báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước của Việt Nam là công bố chậm so với thời hạn sau 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc. Vì vậy, cùng với việc không công khai dự toán ngân sách nhà nước, OGP chấm 0 điểm cho tiêu chí minh bạch ngân sách của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu báo cáo này được công bố trong vòng 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc, Việt Nam sẽ được thêm 2 điểm trong OGP. Việc này là khả thi vì đó cũng là thời hạn mà Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định. Cụ thể, Khoản 7, Điều 70 của Luật ghi rò: “Quốc hội xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước chậm nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.” Đồng thời, Khoản 1, Điều 71 quy định: “Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước trước khi trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn.”

Quá trình phân cấp thẩm quyền chi tiêu diễn ra quá nhanh. Việc cung cấp các dịch vụ công trực tiếp cho nhân dân chủ yếu là trách nhiệm của địa phương, nhưng các chính sách về dịch vụ công, như giáo dục và y tế lại được hoạch định bởi các cơ quan quản lý ngành ở Trung ương. Phần nào sẽ hạn chế tính minh bạch, trách nhiệm giải trình ở cấp ngành và địa phương.

Sở dĩ việc công khai, minh bạch ngân sách càng trở nên cấp thiết và cần thực hiện nghiêm theo quy định, bởi trong chi tiêu ngân sách ở đâu đó vẫn còn có hiện tượng chi sai quy định, vượt tiêu chuẩn, định mức. Các cấp quản lý ngân sách đều phải chịu trách nhiệm với quyết định của mình, trên cơ sở giám sát của cộng đồng. việc công khai ngân sách ở một số địa phương

chưa được thực hiện nghiêm, có nơi không công khai, hoặc có công khai nhưng chậm công bố thông tin. Đây chính là kết quả được chỉ ra bởi Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế và Tổ chức Kiểm toán quốc tế. Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật Ngân sách nhà nước ở một số địa phương còn lỏng lẻo. Do đó, trong bối cảnh ngân sách còn khó khăn như hiện nay thì việc thắt chặt chi tiêu, tăng cường kỷ cương cũng như công khai, minh bạch ngân sách cần phải đặt lên hàng đầu.

2.2.2. Sự tham gia của người dân ( Citizen Engagement)

Theo Tuyên ngôn phổ quát về dân chủ, do Liên minh nghị viện thế giới thông qua năm 1997, dân chủ vừa là một lý tưởng, vừa là một phương thức quản trị. Dân chủ bảo vệ phẩm giá và quyền cơ bản của cá nhân, giúp đạt được công bằng xã hội, tăng cường sự gắn kết của xã hội. Nó cũng là hệ thống chính trị duy nhất có khả năng tự chỉnh sửa những sai lầm. Trong các cấu thành của dân chủ, quyền tham gia có vai trò thiết yếu bởi sự tham gia của người dân vào các hoạt động của nhà nước chính là sự biện minh cho sự tồn tại của chính nhà nước đó. Việc thiếu hụt tiếng nói, sự đóng góp của người dân làm cho nhà nước mất tính chính đáng, chính danh.

Sáng kiến Đối tác Chính phủ mở mang đến một tầm nhìn chiến lược mới nhưng cũng đòi hỏi về sự tham gia của người dân. Tổng điểm tiêu chuẩn cho sự tham gia của người dân là 4, dựa trên điểm số được đánh giá ở chỉ số dân chủ của EIU chủ yếu tập trung vào các nhóm tiêu chí : Tiến trình bầu cử và sự đa dạng; các tự do dân sự; hoạt động điều hành của nhà nước; sự tham gia vào hoạt động chính trị của người dân; văn hóa chính trị. Ở lần đánh giá gần nhất vào năm 2017, Việt Nam đạt chỉ số dân chủ 3.08 trong Chỉ số dân chủ của EIU tương đương với 2 điểm trên tổng 4 điểm cho tiêu chí “ sự tham gia của người dân”

Hình 3 Bảng chỉ số dân chủ của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2017 ● Dân chủ 1

Hình 3.Bảng chỉ số dân chủ của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2017

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

● Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện

Nền kinh tế thị trường, các phương tiện truyền thông hiện đại với những luồng thông tin đa chiều, thúc đẩy các nhu cầu và năng lực tham gia chính trị của người dân, đồng thời nó cũng sẽ tạo áp lực lớn hơn với bộ máy nhà nước trong vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Các nguyên tắc bầu cử được Hiến pháp 2013 xác định bao gồm nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín ( Điều 7). Hiến pháp bảo đảm quyền của công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân ( Điều 27). Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được thông qua năm

2015 thay thế cho Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001 và 2010) và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 2003( sửa đổi, bổ sung 2010), trong đó có một số quy định mới liên quan đến việc phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu; Hội đồng bầu cử quốc gia và tổ chức phụ trách bầu cử tại địa phương; ứng cử, hiệp thương, giới thiệu người ứng cử; tuyên truyền; vận động bầu cử; bỏ phiếu, xác định kết quả bầu cử..

Những quy định nêu trên góp phần thúc đẩy quyền tham gia của nhân dân, song khung pháp luật về bầu cử vẫn còn biểu hiện của tình trạng dân chủ hình thức. Bầu cử là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia, nhiều khía cạnh của bầu cử bẫn không được người dân và nhà nước nhận thức đầy đủ. Tại cuộc bầu cử gần đây nhất ( bầu cử đại biêu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021), ghi nhận có 154 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội. Luật bầu cử không đưa ra khái niệm “ tự ứng cử” và “ người tự ứng cử” nhưng theo quy định tại Luật này có thể hiểu người tự ứng cử là những người không được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương hoặc địa phương giới thiệu ra ứng cử. Việc tự ứng cử là thực thi một cách thực chất quyền ứng cử của công dân. Tuy nhiên, nói đến ứng cử gần dây, các cơ quan nhà nước chủ yếu quan tâm tới những người được cơ quan, tổ chức đề cử, giới thiệu. Nhưng kể cả đối với những người này, sự đề cử, giới thiệu chỉ có hiệu lực khi có sự mong muốn của chín họ ra ứng cử. Mặc dù là tự ứng cử, nhưng tên của những người tự ứng cử ( ứng cử viên độc lập) cũng phải đưa vào danh sách hiệp thương do hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập và chủ trì. Do nhiều nguyên nhân, trong số 154 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội ( được lập danh sách sau hội nghị hiệp thương lần 2) chỉ có 11 người qua được vòng hiệp thương thứ ba để có tên trong danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội. Kết quả cuối cùng có 2 người tự ứng cử đạt số phiếu trở thành đại biểu Quốc hội khóa XIV.

Điểm hạn chế của hệ thống bầu cử đó là việc quá trình hiệp thương trở thành quá trình” tiền bỏ phiếu”, điều này là trái với nguyên tắc bầu cử trực tiếp quy địn trong Hiến pháp. Nhìn về quy chế của hiệp thương, dường như từ Đổi mới 1986 không có quá nhiều sự thay đổi từ quy chế tiến hành và thủ tục hiệp trương, người ta dùng hiệp thương để thay cho tranh cử. Bên cạnh đó cũng nhiều vấn đề như: thông tin mà cử tri có được về các ứng cử viên tại đơn vi bầu cử của mình chưa đầy đủ; thủ tục đối với những công dân ứng cử tự do chưa công bằng bình đẳng; mức độ cạnh tranh giữa các ứng viên trong danh sách chính thức thấp. Dân chủ đại diện nhưng lại phần nào chưa đáp ứng được “ đại diện” của mình bởi rò ràng thiếu đi sự tương tác hai chiều giữa đại biểu và các cử tri. Chúng ta coi việc bầu ra đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân như là vấn đề đương nhiên phải có mà không coi đó phải là chức năng của những cơ quan này. Về bãi nhiệm đại biểu, Khoản 2 Điều 7 Hiến pháp 2013 có quy định “ Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”, tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa có cơ chế nào để để cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân.

Về hình thức dân chủ trực tiếp, Việt Nam thông qua Luật trưng cầu ý dân 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016, theo đó Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân ( Điều 14). Quyết định trưng cầu ý dân sẽ được đưa vào chương tình làm việc của Quốc hội tại kỳ họp gần nhất để xem xét và quy định. Việc thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở cũng mang lại nhiều kết quả tốt, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực ở cơ sở. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được thực hiện đồng bộ, cụ thể hơn và đạt hiệu quả.

● Các quyền dân sự của công dân

Luật tiếp cận thông tin năm 2016 là một bước tiến trong việc bảo đảm

tính dân chủ. Tuy nhiên, đạo luật này vẫn còn hạn chế trong việc xác định phạm vi quyền tiếp cận của người nước ngoài và trẻ em; chưa có quy định cụ thể về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của những người không biết đọc hay những người đang bị tước một số quyền tự do. Việc yêu cầu thông tin đòi hỏi các thủ tục phức tạp :

“2. Đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo cho người yêu cầu đến trụ sở để đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc nhận bản sao, bản chụp tài liệu hoặc có văn bản thông báo về việc từ chối cung cấp thông tin.

Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 10 ngày làm việc và phải có văn bản thông báo về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.”

Đồng thời, lần đầu tiên ở Việt Nam, một chế tài hình sự được áp dụng cho tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin được quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015 (đang tạm hoãn hiệu lực thực thi), theo đó: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Tuy nhiên, Luật Tiếp cận thông tin 2016 cũng quy định những thông tin thuộc bí mật nhà nước là những thông tin công dân không được tiếp cận (Điều 6). Như vậy, mức độ “mở” của Luật Tiếp cận thông tin thực chất phụ thuộc vào nội dung của Luật về Bí mật nhà nước. Hiện tại, quy định về việc xây dựng danh mục bí mật nhà nước mà nằm gọn trong khối hành pháp, cụ

thể là sự thống nhất giữa người đứng đầu các cơ quan trung ương với Bộ trưởng Bộ Công an, đang tạo ra trở ngại lớn với quyền tiếp cận thông tin của người dân. Nếu như quy định này không được sửa đổi trong Luật về Bí mật nhà nước, khả năng nó sẽ là lực cản chính trong việc thực hiện ba tiêu chí đầu tiên của OGP, đó là Tiếp cận thông tin, Minh bạch ngân sách và Công khai tài sản

Quyền tự do ngôn luận hiện được điều chinh bởi Luật Báo chí, Luật xuất bản gần đây nhất là Luật an ninh mạng được thông qua năm 2018. Điểm mới của Luật Báo chí 2016 đó là đã cho phép các tổ chức tôn giáo được xuất bản một tờ báo và các trường đại học và bệnh viên tư nhân ở cấp tỉnh có thể thành lập tạp chí chuyên ngành ( Điều 14). Việt Nam trong chừng mực nào đó đã từng có quy định kiểm soát internet bằng một văn bản pháp luật được thông qua hồi 2015, Luật An toàn thông tin mạng. Nhưng đã có những lời kêu gọi trong chính phủ, theo đó muốn có luật mới, trực tiếp kiểm soát an ninh mạng, sau khi nước này bị xếp thứ 101 trên tổng số 195 quốc gia trong chỉ số an ninh mạng toàn cầu 2017 của Liên hiệp quốc công bố. Có nhiều ý kiến trái chiều tại thời điểm Dự thảo luật an ninh mạng được công bố, nhiều người thì coi đây là sự bóp nghẹt tự do ngôn luận, nhiều người thì lại cho rằng không phải vậy. Rò ràng là, khi thời điểm cách mạng công nghệ 4.0 tới ngoài không gian cuộc sống thực tế, chúng ta đang phát triển tới một không gian “ ảo” mà Việt Nam chỉ có những quy định nằm rải rác các nơi, điều cần thiết là tập trung lại luật hóa các quy định đó để nó trở thành khung pháp luật chung thì Luật an ninh mạng là điều tất yếu của quá trình này.

Quyền tự do hiệp hội đã được hiến định nhưng chưa có luật thực thi. Việc xây dựng Luật về Hội để thay thế Nghị định 45/2010/NĐ-CP về vấn đề này dù đã được tiến hành nhưng tới thới điểm hiện tại vẫn chưa hoàn thành, mà như thế nó lại tạo thành rào cản cực lớn cho hoạt động của các tổ chức, hiệp hội trong thực tế. Tương tự, quyền tự do hội họp, biểu tình cũng chưa được luật cụ thể hóa; biểu tình ở Việt Nam vẫn mang hình ảnh của một hành động mang tính tiêu cực, việc thực hiện những quyền này gặp trở ngại rất lớn.

Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi sự tham gia của người dân trong thực tế.

2.2.3. Công khai tài sản ( Public Officials Asset Disclosure)

Mỗi quốc gia - bao gồm cả chính phủ và xã hội dân sự của nó – và cộng đồng quốc tế nên xác định được những vấn đề cụ thể mà mình cần giải quyết thông qua một hệ thống kê khai tài sản. Các quốc gia cần tổ chức thảo luận một cách toàn diện và có sự tham gia của mọi thành phần trước khi đưa ra hoặc sửa đổi cơ bản hệ thống kê khai tài sản đối với công chức, nhằm xác định những mục đích mà mình muốn đạt được. Những mục đích chính của hệ thống kê khai tài sản có thể bao gồm:

- Nâng cao tính minh bạch và niềm tin của người dân vào nền hành chính công, thông qua việc công khai thông tin về tài sản của các chính trị gia và công chức mà trong đó thể hiện một điều rằng họ không có gì để che giấu;

- Giúp những người đứng đầu của các cơ quan công quyền ngăn ngừa xung đột lợi ích giữa các nhân viên của mình và giải quyết những tình huống như vậy khi chúng phát sinh, nhằm mục đích tăng cường liêm chính trong tổ chức;

- Giám sát sự biến động về tài sản của các chính trị gia và công chức, nhằm mục đích ngăn chặn họ thực hiện các hành vi sai trái và bảo vệ họ khỏi việc bị tố cáo sai sự thật, và giúp làm rò phạm vi đầy đủ của hành vi làm giàu bất hợp pháp hoặc các hành vi phi pháp khác thông qua việc cung cấp chứng cứ bổ sung.

Điều 34 Luật phòng, chống tham nhũng 2015 đưa ra 4 nhóm đối tượng phải công khai tài sản bao gồm: Cán bộ, công chức ; Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Đây là nhóm các đối tượng cần được kiểm soát mạnh mẽ, tuy nhiên, thực tế trong những năm gần đây cho thấy, quy định này

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 06/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí