động của các doanh nghiệp thuỷ sản trong việc đối phó với các rào cản kỹ thuật là cao hơn nhiều so với các đồng nghiệp của họ tại các ngành khác.
Mặc dù vậy, các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam vẫn mang những yếu kém mang tính truyền thống của các doanh nghiệp Việt Nam như trình độ quản lý còn khá thấp. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học ứng dụng trong nuôi trồng thuỷ sản, còn hạn chế. Thương hiệu của thuỷ sản Việt Nam chưa có được vị trí xứng đáng trên thị trường, đặc biệt là tới người tiêu dùng Nhật Bản nói riêng cũng như thế giới nói chung. Hiện nay, các mặt hàng thủy sản của Việt Nam được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu Nhật Bản và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau. Mặc dù đã có một số sản phẩm có chất lượng cao đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường với thương hiệu của riêng mình, nhưng số đó vẫn còn rất ít.
Hai khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam hiện nay là nguồn nguyên liệu còn hạn chế và sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản đều cho rằng vấn đề nghiêm trọng nhất hiện nay của họ là nguồn nguyên liệu không đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Điểm này càng được thể hiện rõ hơn khi thuỷ sản Việt Nam vấp phải những thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe như Nhật Bản. Do những cơ sở nuôi trồng thuỷ sản chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của các vấn đề vệ sinh an toàn trong chăn nuôi thuỷ sản dẫn đến chất lượng nguồn nguyên liệu thuỷ sản đã không đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu. Những hạn chế cố hữu của người sản xuất nhỏ, tập trung vào lợi ích trước mắt đã khiến cho nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam chưa phát huy hết được thế mạnh của mình. Những yếu kém trong vấn đề quy hoạch và thực hiện quy hoạch đã khiến cho các vùng nguyên liệu của thuỷ sản Việt Nam tương đối phân tán, không tận dụng được lợi thế quy mô và quan trọng nhất là không đảm bảo được các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Không chỉ chất lượng sản phẩm mà cả tính bền vững của sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam cũng luôn phải đương đầu với những khó khăn xuất phát từ điểm yếu này. Trong trường hợp này,
chỉ riêng sự cố gắng nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu là chưa đủ.
Hạn chế thứ hai như là hệ quả của hạn chế thứ nhất. Khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa theo kịp được khu vực chế biến xuất khẩu. Từ một phương diện, công suất chế biến lớn hơn công suất cung cấp nguyên liệu đã dẫn đến hiện tượng tranh mua tranh bán không chỉ làm ảnh hưởng đến giá cả năng lực cạnh tranh mà còn làm cho chất lượng giảm sút. Hơn nữa, nguồn nguyên liệu để đưa vào chế biến đem đi xuất khẩu là từ các nhà sản xuất nhỏ lẻ, mua bán qua trung gian, nên khó hình thành được chuỗi giá trị chuyên nghiệp. Đây là một trong những nỗi lo lắng của các doanh nghiệp xuất khẩu tôm vào thị trường Nhật Bản.
2.6 Một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn hàng hoá xuất khẩu Việt Nam vượt rào cản phi thuế quan
Những phân tích trong chương hai về hệ thống các rào cản phi thuế quan tại 03 thị trường chủ yếu (Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản) đối với 03 mặt hàng xuất khẩu chiến lược (dệt may, da giày, thuỷ sản) của Việt Nam đã cho thấy ảnh hưởng to lớn của các rào cản này với hàng xuất khẩu của Việt Nam.Việc khái quát một số bài học kinh nghiệm sẽ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp vượt qua các rào cản phi thuế quan một cách có hiệu quả hơn.
Thứ nhất, các rào cản phi thuế quan thường được áp dụng khi lượng hàng hoá nhập khẩu có khối lượng lớn, có vị trí quan trọng trên thị trường, có khả năng tác động đến hàng sản xuất nội địa. Các cơ quan hữu quan sẽ đặt các hàng hoá trên vào trong sự theo dõi đặc biệt và có thể khởi động các rào cản vào thời điểm thích hợp. Từ các mặt hàng dệt may cho tới da giày và thuỷ sản, Việt Nam đều nằm trong các nhà xuất khẩu hàng đầu vào thị trường. Và khi lượng hàng hoá nhập khẩu lớn thì sẽ bị chú ý nhiều hơn, Do vậy, việc kiểm soát lượng hàng xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ hai, các rào cản phi thuế quan thường đa dạng và đánh trúng vào điểm yếu của hàng nhập khẩu. Tuỳ thuộc vào từng thị trường và mặt hàng, các cơ quan quản lý tại thị trường nhập khẩu sẽ áp dụng các rào cản kỹ thuật hoặc các biện pháp hành chính nhằm hạn chế sự gia tăng của lượng hàng nhập khẩu. Mặc dù hệ thống các rào cản phi thuế quan là khá đa dạng và phức tạp nhưng cũng có thể dự đoán trước các rào cản sẽ
được áp dụng do các biện pháp này sẽ tập trung vào các điểm yếu nhất của hàng hoá nhập khẩu. Nếu hàng nhập khẩu có mức giá quá thấp, thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng. Nếu quy trình sản xuất có vấn đề thì các tiêu chuẩn về môi trường và trách nhiệm xã hội sẽ được áp dụng.
Thứ ba, Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định trong việc vượt rào cản. Khả năng cạnh tranh về giá có ý nghĩa sống còn trong việc xác định vị thế của hàng nhập khẩu trên thị trường nhưng chất lượng sản phẩm mới là yếu tố quan trọng nhất trong việc duy trì khả năng cạnh tranh cũng như vượt qua các rào cản. Điểm mới ở đây là chất lượng phải được hiểu theo một nội dung rộng lớn hơn từ chất lượng nguồn nguyên liệu, chất lượng của quy trình sản xuất tới chất lượng của sản phẩm cuối cùng. Áp dụng các bộ tiêu chuẩn quốc tế như ISO, SA trở thành yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ tư, vai trò đặc biệt của Chính phủ và sự phối hợp công – tư. Các doanh nghiệp không đủ khả năng để tự giải quyết mọi vấn đề khi vấp phải các rào cản phi thuế quan. Các hoạt động ngoại giao, đàm phán ở cấp chính phủ sẽ giải quyết được các vướng mắc không chỉ về pháp lý mà còn tạo ra sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau cao hơn, mở đường cho việc dỡ bỏ các rào cản phi thuế quan. Các doanh nghiệp và Chính phủ phải có cùng một quyết tâm và chủ trương hành động để thoả mãn những yêu cầu của thị trường như trong trường hợp của xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật Bản. Điểm yếu lớn nhất hiện nay là vai trò của các hiệp hội còn khá mờ nhạt.
Thứ năm, Phòng hơn chống. Kinh nghiệm cho thấy việc thoả mãn các yêu cầu của thị trường và tìm các biện pháp tháo gỡ vướng mắc sẽ đỡ tốn kém hơn nhiều so với việc dỡ bỏ các rào cản một khi chúng đã được thực hiện. Nếu các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam quan tâm đến chất lượng nguồn nguyên liệu tốt hơn thì có lẽ kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đã không bị chững lại trong năm 2006 và năm 2007.
***
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tăng trưởng vượt bậc trong thời gian gần đây. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam bị các nước nhập khẩu chú ý và đưa ra các rào cản phi thuế quan.
Phần lớn các rào cản tập trung vào điểm yếu của hàng hoá nhập khẩu. Đối với dệt may là tiêu chuẩn xã hội, đối với da dày là mức giá thấp và với thuỷ sản là dư lượng kháng sinh. Nhìn chung các nước nhập khẩu đều tìm hiểu và phân tích rất sâu sắc hàng hoá nhập khẩu nói chung và Việt Nam nói riêng trước khi đưa ra các rào cản kỹ thuật.
Các doanh nghiệp Việt nam đã gặp nhiều khó khăn khi đối mặt với hệ thống rào cản phi thuế quan. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do những khó khăn về nguồn nguyên liệu, nhân lực, công nghệ, khả năng cạnh tranh cũng như thị phần của các doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam đã bị ảnh hưởng. Việc tổ chức phối hợp để nâng cao thương hiệu quốc gia, chất lượng sản phẩm giữa các doanh nghiệp, các Hiệp hội và các Cơ quan Chính phủ chưa thực sự hiệu quả, cũng là một nguyên nhân hạn chế khả năng vượt rào của hàng hoá và các doanh nghiệp Việt Nam.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP VƯỢT QUA CÁC RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM
3.1 Xu hướng và mục tiêu phát triển của xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
Trong Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, Bộ Thương mại Việt Nam (nay là Bộ Công thương) đã đệ trình lên Chính Phủ Việt Nam xem xét và quyết định ban hành vào tháng 03/2006 đã nhấn mạnh các thành tựu và kết quả thu được của xuất khẩu Việt Nam những năm 2001-2005 và các đề xuất định hướng cơ cấu ngành hàng xuất khẩu cùng thị trường xuất khẩu trong năm 2006-2010.
Mục tiêu tổng quát của hoạt động xuất giai đoạn 2006-2010 là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP; đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô.
Để đạt được những mục tiêu trên, các quan điểm chủ đạo về phát triển xuất khẩu trong giai đoạn 2006-2010 cần được quán triệt thực hiện là:
(1) Tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động.
(2) Gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; gắn thị trường với sản xuất; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa quan tâm mở rộng thị trường xuất khẩu.
(3) Giữ vững các thị trường lớn, trọng điểm đồng thời đa dạng hóa hơn nữa thị trường xuất khẩu để tránh lệ thuộc, rủi ro trong xuất khẩu.
(4) Khuyến khích, tạo điều kiện và khai thác tối đa tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong hoạt động xuất – nhập khẩu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp.
Các chỉ tiêu cụ thể được thể hiện như sau:
3.1.1 Về qui mô và tốc độ tăng trưởng
Trên cơ sở các đánh giá, dự báo về khả năng sản xuất, diễn biến giá cả xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới, Đề án đưa ra các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam như sau: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình cả giai đoạn 2006-2010 đạt mức 17,5%/năm (xem bảng 3.1).
Bảng 3.1: Định hướng về kim ngạch và tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2006-
2010
Đơn vị: triệu USD, %
Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Giai đoạn 2006-2010 | ||||||
KN | Tăng | KN | Tăng | KN | Tăng | KN | Tăng | KN | Tăng | |
Tổng số | 45.312 | 17,8 | 53.411 | 17,9 | 62.022 | 16,1 | 72.547 | 17,0 | 271.735 | 17,5 |
- Nhóm nông, lâm, thuỷ sản | 7.928 | 8,0 | 8.533 | 7,6 | 9.223 | 8,1 | 9.917 | 7,5 | 42.942 | 7,7 |
- Nhóm nhiên liệu, khoáng sản | 8.192 | 2,1 | 8.613 | 5,2 | 7.077 | -17,8 | 6.988 | -1,3 | 38.891 | -3,1 |
- Nhóm công nghiệp và TCMN | 21.629 | 22,5 | 26.451 | 22,3 | 32.415 | 22,6 | 39.231 | 21,0 | 137.375 | 22,1 |
- Nhóm hàng khác | 7.564 | 39,3 | 9.830 | 30,0 | 13.370 | 36,0 | 16.503 | 23,4 | 52.697 | 30,4 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tác Động Của Hàng Rào Phi Thuế Quan Của Eu Đối Với Hàng Giày Dép Việt Nam
- Khái Quát Về Hệ Thống Rào Cản Phi Thuế Quan Của Nhật Bản Đối Với Hàng Thuỷ Sản Nhập Khẩu
- Giá Trị Và Sản Lượng Xuất Khẩu Thủy Sản Việt Nam Sang Nhật Bản 1996- 2006
- Kim Ngạch Và Tỷ Trọng Của Nhóm Hàng Nhiên Liệu, Khoáng Sản Đến 2010
- Nâng Cao Nhận Thức Và Phổ Biến Thông Tin Đến Các Doanh Nghiệp Về Các Rào Cản Phi Thuế Quan
- Hỗ Trợ Các Doanh Nghiệp Trong Việc Áp Dụng Các Hệ Thống Tiêu Chuẩn Chất Lượng Quốc Tế Và Các Tiêu Chuẩn Xã Hội
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Nguồn: Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, Bộ Thương mại Việt Nam (nay là Bộ Công thương)
Những chỉ tiêu trên thể hiện rõ quan điểm “Coi việc tập trung đầu tư vào nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản là hai khâu trọng tâm để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010”. Quan điểm này dựa trên những nhận định quan trọng sau:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu sẽ có xu hướng giảm dần do tác động của sự sụt giảm khối lượng xuất khẩu dầu thô và than đá theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tiếp theo; đặc biệt là kể từ năm 2009, khi Nhà máy lọc dầu số 1 dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ sử dụng nguồn dầu thô trong nước.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản sẽ có xu hướng tăng dần nhưng với biên độ thấp do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng qui mô nuôi, trồng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng mạnh do có nhiều điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất (đặc biệt là thông qua hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này), phát triển thị trường mới, mặt hàng mới, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ.
Trên thực tế, kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48,38 tỷ USD, vượt 8% so với kế hoạch và 21.5% so với năm 2006. Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng thực tế trong cả giai đoạn có nhiều khả năng cao hơn mức dự báo.
3.1.2 Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Với mục tiêu “chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo đó, tỷ trọng của các nhóm hàng nông - lâm - thuỷ sản và nhiên liệu - khoáng sản sẽ có xu hướng giảm dần và nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng dần, Đề án xây dựng theo hướng nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản sẽ giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam từ 19,1% năm 2006 xuống còn 13,7% năm 2010 như trong bảng 3.2. Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 21,0% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010. Riêng
nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng khá mạnh từ 45,9% năm 2006 lên 54,1% năm 2010.
Bảng 3.2: Kim ngạch và cơ cấu của từng nhóm hàng đến 2010
Đơn vị: triệu USD, %
Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Giai đoạn 2006-2010 | ||||||
KN | Tỷ trọng | KN | Tỷ trọng | KN | Tỷ trọng | KN | Tỷ trọng | KN | Tỷ trọng | |
Tổng XK hàng hoá | 45.312 | 100 | 53.411 | 100 | 62.022 | 100 | 72.547 | 100 | 271.735 | 100 |
- Nhóm nông, lâm, thuỷ sản | 7.928 | 17,5 | 8.533 | 16,0 | 9.223 | 14,9 | 9.917 | 13,7 | 42.942 | 15,8 |
- Nhóm nhiên liệu, khoáng sản | 8.192 | 18,1 | 8.613 | 16,1 | 7.077 | 11,4 | 6.988 | 9,6 | 38.891 | 14,3 |
- Nhóm công nghiệp và TCMN | 21.629 | 47,7 | 26.451 | 49,5 | 32.415 | 52,3 | 39.231 | 54,1 | 137.375 | 50,6 |
- Nhóm hàng khác | 7.564 | 16,7 | 9.830 | 18,4 | 13.370 | 21,6 | 16.503 | 22,7 | 52.697 | 19,4 |
Nguồn: Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, Bộ Thương mại Việt Nam
(nay là Bộ Công thương)
Đề án cũng đưa ra chỉ tiêu xuất khẩu cụ thể của từng mặt hàng trong từng nhóm hàng theo cả giai đoạn (bảng 3.3) như sau:
Nhóm nhiên liệu, khoáng sản:
- Dầu thô: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ bắt đầu giảm mạnh từ năm 2009 trở đi do sản lượng khai thác được sẽ dành một phần để phục vụ cho hoạt động của nhà máy lọc dầu trong nước. Theo kế hoạch dự kiến, lượng dầu thô xuất khẩu năm 2006 là 18,7 triệu tấn, năm 2007 là 19 triệu tấn, năm 2008 là 20 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 16 triệu tấn, năm 2010 còn 15,6 triệu tấn. Mức giá dự tính sẽ vẫn dao động ở mức cao, trung bình khoảng 54 USD/thùng (tương đương với khoảng 400 USD/tấn). Tuy nhiên, trên thực tế lượng dầu thô xuất khẩu năm 2006 đạt hơn 16,3 triệu tấn và năm 2007 chỉ còn 15,2 triệu tấn, giảm 7,4%. Tuy nhiên do mức