Thông tin về nhận biết rủi ro không đầy đủ, kịp thời, không có tính hệ
thống và thiếu chính xác. Đồng thời cũng không có sự phân cấp giữa người cập nhật thông tin và sử dụng thông tin, tình trạng báo cáo tay là chủ yếu.
2.4.2.3 Quy trình cấp tín dụng còn bất cập
Phòng khách hàng của ngân hàng thực hiện đầy đủ ba chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị của một khoản vay nên nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu. Việc cán bộ quan hệ khách hàng vừa
là người đi tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng vừa phân tích khách hàng để duyệt thường kém tính khách quan và tiềm ẩn rủi ro vì:
trình
(i) Cán bộ quan hệ khách hàng thường phải chịu áp lực về phát triển, mở rộng khách hàng nên họ có thể phân tích khách hàng tốt hơn so với thực tế để được phê duyệt khoản vay, đảm bảo chỉ tiêu về dư nợ.
(ii) Cán bộ quan hệ khách hàng tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên đôi khi có sự thông đồng giữa cán bộ khách hàng và ngân hàng dẫn đến khai tăng nhu cầu để vay hộ, vay ké hoặc khách hàng mua chuộc cán bộ quan hệ khách hàng để được cấp tín dụng.
Do hạn chế về tính minh bạch về thông tin của khách hàng và năng lực thẩm định của cán bộ quan hệ khách hàng còn yếu, quy trình cấp tín dụng nhìn chung còn cồng kềnh, phức tạp. Hạn chế này gây lãng phí về nhân lực, tài lực của ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Biểu Đồ Kết Quả Kinh Doanh Qua Các Năm 2015,2016,2017
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh Vân Đồn
- Ứng Phó Với Rủi Ro Tín Dụng Tại Vietinbank Vân Đồn Quản Lý Khoản Vay
- Triển Vọng Và Định Hướng Phát Triển Của Vietinbank – Chi Nhánh Vân Đồn Đến Năm 2025
- Xây Dựng Chiến Lược Quản Trị Rrtd Và Chính Sách Hợp Lý Đối Với Doanh Nghiệp
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - chi nhánh Vân Đồn - 16
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
2.4.3 Nguyên nhân những hạn chế VietinBank Vân Đồn.
2.4.3.1 Nguyên nhân khách quan
trong công tác quản trị
RRTD của
Môi trường kinh doanh bất ổn do ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên (thiên tai, dịch bệnh, tai nạn…) hay sự biến động quá nhanh và không dự đoán được
của thị trường thế giới (khủng hoảng kinh tế, lạm phát, giá cả các mặt hàng thay đổi đột biến) gây tổn thất cho khách hàng vay vốn.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM dẫn đến tình trạng cho vay khi chưa thẩm định kỹ khách hàng, các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng khác thu hút.
Hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, … Hai nữa, sự thiếu hợp tác của cơ quan nhà nước khi phải xử lý tài sản thu hồi nợ, thời gian từ khi bản án có hiệu lực đến khi bán được tài sản thu hồi nợ thường rất lâu.
2.4.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Từ phía khách hàng
Đối với khách hàng Doanh nghiệp:
Trong thực tế hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam Chi nhánh Vân Đồn, rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do các nguyên nhân:
Sau khi nhận được vốn vay, các doanh nghiệp thường có động cơ sử dụng vốn vào các mục đích rủi ro với mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, vấn đề các doanh nghiệp sử dụng vốn vay không đúng mục đích không chỉ do í chí chủ quan của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ công tác giám sát khách hàng sau khi cho vay của ngân hàng chưa thật sự chặt chẽ.
Hầu hết các khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác để phục vụ cho việc cấp tín dụng: các báo cáo tài chính
thường thiếu sự minh bạch, trung thực, không được kiểm toán hoặc một số
doanh nghiệp tuy có thực hiện kiểm toán nhưng chậm so với thời gian ngân hàng cần có để sử dụng cho quá trình phân tích.
Công tác quản lý, điều hành của một số doanh nghiệp chưa hiệu quả. Năng lực điều hành của Ban lãnh đạo còn nhiều hạn chế, chưa đủ kinh nghiệm và tầm nhìn về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, trình độ, kiến thức về quản lý kinh tế yếu kém thể hiện qua việc doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh rõ ràng, cụ thể, không có kế hoạch kinh doanh được triển khai, không chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về sự biến động của giá cả thị trường, ngành hàng, về tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, đối thủ cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp không có khả năng thích ứng kịp thời với sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường và môi trường kinh doanh, cũng như
các sản phẩm làm ra không có sự người tiêu dùng...
gắn kết, không đáp
ứng được thị
hiếu của
Quy mô kinh doanh mở rộng quá lớn so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của hầu hết các doanh nghiệp. Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên về trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ thuật và kỷ luật lao động. Thói quen sản xuất, kinh doanh theo kiểu phong trào: thấy lĩnh vực nào có hiệu quả, các doanh nghiệp thường đổ xô đầu tư mà không xem xét đầy đủ mọi khía cạnh. Công nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp không tạo ra được những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Nguyên nhân một mặt do Ban lănh đạo chưa đủ tầm nhìn mặt khác do sự phát triển quá nhanh của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội…
– Đối với khách hàng cá nhân:
Hoạt động kinh doanh không thuận lợi: Môi trường kinh doanh khó khăn, đầu vào đầu ra không đảm bảo, bị chiếm dụng vốn,…
Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động.
Cá nhân khách hàng gặp nhiều chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy họ phải sử dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng.
Đạo đức cá nhân không tốt: Cố tình lừa ngân hàng, không trả nợ, sử dụng tiền vay không đúng mục đích.
Về phía ngân hàng
Công tác thẩm định:
Ban lãnh đạo chưa thực sự xây dựng được các tiêu chuẩn chặt chẽ và đúng mức về chất lượng tín dụng, chưa đặt ra một cơ chế mềm dẻo và linh hoạt.
Thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro chưa được cập nhật đầy đủ, manh mún, mang tính chủ quan, thụ động, chủ yếu lấy từ hồ sơ khách hàng cung cấp và qua phỏng vấn, tiếp xúc khách hàng, do đó hạn chế trong việc phân tích tín dụng. Công tác quản lý giám sát cho vay còn lỏng lẻo, hình thức, không thường xuyên do tâm lý ngại phiền hà khách hàng.
Thiếu sự hợp tác cung cấp thông tin từ phía các Chi nhánh của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn hoạt động khi khách hàng có quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng để cùng nhau hạn chế rủi ro.
Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn chủ yếu dựa vào TSBĐ, điều này sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn
đến việc cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến
Hiện nay, công việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là vấn đề thật sự khó khăn khi nguồn thông tin của khách hàng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi đánh giá, chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập
được từ
địa phương nơi KH cư
trú, qua đối tác, bạn hàng. Trong khi đó, đối
tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mì́nh, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường, nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn.
Về năng lực quản trị, mặc dù nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và số năm công tác. Kết quả là việc đánh giá năng lực quản lý của khách hàng chỉ mang tính hình thức, không đánh giá đúng thực chất.
Về năng lực tài chính, công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay
do Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao, nhất là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Ngân hàng dù biết kiểm toán báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng không dám đề nghị khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng.
Cán bộ tín dụng:
Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Vân Đồn hiện nay chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù tất cả các cán bộ tín dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi của đa số cán bộ tín dụng còn khá trẻ, phần lớn mới được tuyển dụng, còn ít kinh nghiệm nên cần phải có thêm thời gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều kinh nghiệm.
Bên cạnh nguyên nhân trên, vẫn còn một số ít cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện công việc một cách thụ động.,
Thêm vào đó, công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Vân Đồn hiện nay đang bất cập ở chỗ: Cán bộ không quản lý theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh mà lại theo địa bàn do vậy dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào, nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành sẽ hạn chế trong công tác thẩm định và quản lý khách hàng.
Tài sản bảo đảm:
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Vân Đồn trong thời gian qua là lớn, khi phải phát mại, xử
lý tài sản thế chấp Chi nhánh cũng gặp không ít khó khăn và bị tổn thất nhiều (Tỷ lệ NQH có khả năng tổn thất/Dư nợ quá hạn năm 2015, 2016, 2017 lần lượt là: 31%, 23%, 22%)
Nhận tài sản bảo đảm của bên thứ 3 (người có tài sản thế chấp tài sản của mình để cho một người khác vay vốn). Về khía cạnh pháp lý khi thế chấp và vay vốn là không sai, và các cơ quan công chứng cũng chấp nhận chứng thực vào hợp đồng thế chấp, nhưng khi cần phát mại thì người chủ sở hữu gây khó khăn cho Ngân hàng và làm kéo dài thời gian tố tụng. Lý do chủ sở hữu tài sản viện dẫn là không uỷ quyền việc bán tài sản hoặc người được uỷ quyền thế chấp tài sản đã sử dụng vốn vay không phù hợp với thoả thuận với người uỷ quyền.
Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được các cán bộ tín dụng làm thường xuyên và định kỳ hàng năm, thậm chí việc định giá lại tài sản đảm bảo chỉ làm chiếu lệ, thường là đánh giá bằng với mức trước đây để hợp pháp hoá cho khoản vay còn dư nợ tại thời điểm định giá lại. Nên có một số trường hợp khi phát mại, xuất hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định ban đầu, không đủ thu hồi đủ nợ gốc, lãi.
Xác định sai tài sản đảm bảo: Lúc nhận TSBĐ là nhà ở 3 tầng gắn liền QSD đất mặt đường lớn, tuy nhiên khi xử lý tài sản qua thi hành án, thi hành án tiến hành xác minh thì tài sản lại là một tài sản khác, nhà mái ngói cũ xây trên đất mặt đường đường trong ngõ.
Đăng ký giao dịch đảm bảo (GDBĐ): Ô tô, sà lan, máy móc thiết bị thường được đăng ký sau khi giải ngân và không xác minh trước xem đã được đăng ký GDBĐ chưa, dẫn đến việc có trường hợp chi nhánh đăng ký sau và khi xử lý tài sản không được ưu tiên xử lý hoặc không phong tỏa ô tô ở phòng CSGT công an tỉnh về việc xe đó đang thế chấp ngân hàng, dẫn đến việc khách hàng báo mất làm lại hồ sơ xe mới và bán cho người khác trong khi ngân hàng không biết.
Quy định về bảo đảm tiền vay còn một số bất cập như phân biệt DNNN và DNNQD, hay trong thuê tư vấn định giá tài sản bảo đảm dễ xảy ra rủi ro nếu các doanh nghiệp thỏa thuận với tư vấn định giá dẫn đến định giá tài sản bảo đảm cao hơn giá trị thực tế hay giá trị thị trường của tài sản bảo đảm…
Công tác kiểm tra cho vay:
Công tác kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của chi nhánh còn sơ sài và hình thức, buông lỏng khâu kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay, đặc biệt là việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn và phân tích đảm bảo nợ vay. Phần lớn, các biên bản kiểm tra đều không có chứng từ chứng minh cho việc sử dụng vốn mà chỉ liệt kê danh mục hàng hóa mua vào dựa theo mục đích và phương án vay để kết luận là sử dụng vốn đúng mục đích, nhiều biên bản kiểm tra không có chữ ký của lãnh đạo các phòng cho vay.
Việc phân tích tài chính định kỳ, phân tích đảm bảo không thực hiện đúng quy định của NHCTVN, do không loại trừ các khoản mục phải loại trừ khi tính toán nên hầu hết các khoản vay đều có đủ tài sản đảm bảo trong khi có một số khách hàng có tình hình nợ phải thu khó đ̣i và hàng hóa chậm luân chuyển.
Thông tin tín dụng, định hướng tín dụng:
Việc thu thập thông tin của chi nhánh về ngành nghề, về môi trường kinh tế, lĩnh vực kinh doanh, về tiềm năng kinh tế còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện rất rõ qua việc năm 2014 chi nhánh đã đầu tư rất nhiều vào lĩnh vực vận tải thuỷ các khoản vay dài hạn, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, đến năm 2015, 2016 lĩnh vực này gặp khó khăn, nhiều khoản vay bị quá hạn và chuyển nhóm nợ cao. Hay trong những năm 2015, 2016 mặc dù trong những năm này nền kinh tế gặp khó khăn, tuy nhiên các khoản nợ của các doanh nghiệp quốc doanh là khá tốt không có nợ quá hạn, tỷ trọng chiếm > 40% tổng dư nợ, đến năm 2017 chi