Sự Đa Dạng Hóa Các Loại Hình Đào Tạo Của Các Trường


lựa chọn trường tham gia triển khai các chương trình tiên tiến.

Với những yêu cầu khắt khe khi xây dựng chương trình tiên tiến – chương trình đạt chuẩn để từng bước chuẩn hóa chất lượng giáo dục Việt Nam xứng tầm với các nước trong khu vực. Hiện nay, nền giáo dục Đại học Việt Nam mới chỉ xây dựng được 35 chương trình tiên tiến – xem Phụ lục 4.

Song để đạt được một chất lượng tốt, tương xứng với nó cũng cần phải có nguồn tài chính nhất

định, nên số chi NSNN cho đào tạo theo chương trình này là khá lớn (cụ thể xem Phụ lục 5)

Bất cứ một chương trình nào được thực hiện, nếu như định hướng đúng đắn, một mặt chúng ta sẽ nhận được kết quả tốt, mặt khác còn tiết kiệm được chi phí rất nhiều. Các chương trình tiến tiến được duy trì thường xuyên và tăng cường hơn ở các trường chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng giáo dục và thông qua đó các trường có thể tăng nguồn thu. Bởi các chương trình đào tạo này đều là sự hợp tác với các nước có nền giáo dục tiên tiến. Phân tích dữ liệu cho thấy việc áp dụng chương trình đào tạo này trong trường đại học công lập tác động đến khả năng tự chủ tài chính, thể hiện bảng sau:

Chương trình tiên tiến

Tỷ lệ Tự chủ tài

chính tương ứng

Trường không đào tạo theo CTTT

42%

Trường đào tạo theo CTTT

58%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 246 trang tài liệu này.

Quản lý tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam - 18

Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, sử dụng phần mềm SPSS – Tác giả tổng hợp trên cơ sở dữ liệu của phụ lục 2


Ghi nhận tính hiệu quả của của chương trình, theo TS Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM thử làm một phép tính: ĐH Quốc gia triển khai 3 CTTT và hiện nay có 454 sinh viên theo học. Tổng kinh phí mà ngân sách cấp để thực hiện CTTT là 60 tỷ đồng. Như vậy tính hết mọi chi phí, bình quân mỗi sinh viên được đầu tư khoảng 160 triệu đồng/năm khi theo học CTTT. Con số này cao gấp 8 lần so với việc đầu tư cho 1 sinh viên theo học chương trình cử nhân tài năng (khoảng 20 triệu đồng/sinh viên/năm). “Theo tôi, Nhà nước nên tiếp tục hỗ trợ các trường thực hiện chương trình và các trường sẽ nỗ lực hết mình nhằm duy trì và phát triển chương trình”, TS Nghĩa kiến nghị [84].


Mặc dù, số NSNN chi cho việc đào tạo theo chương trình là một con số khá ấn tượng, tuy nhiên với những yêu cầu có tính nguyên tắc, chuẩn hóa trong việc nâng cao chất lượng đào tạo thì không phải trường đại học nào cũng đáp ứng được các yêu cầu đặt ra và có cơ hội tiếp cận với những nguồn kinh phí đó. Trong 50 trường đại học công lập chọn mẫu thì chỉ có 10 trường (chiếm 20% trong mẫu) đã có những chuyên ngành đào tạo theo chương trình này. Việc này cũng ảnh hưởng tới hình ảnh và thương hiệu của một trường đại học thông qua đó khả năng huy động nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu cũng bị hạn chế.


Tính chất kinh doanh năng động của người đứng đầu các trường đại học công lập


Người đứng đầu các đơn vị, tổ chức đóng vai trò rất quan trọng, họ còn quan trọng hơn nữa khi đứng đầu các trường đại học, bởi khi đó, họ quản lý nguồn nhân lực có trí thức cao. Tính chất kinh doanh năng động của họ cũng có những điểm giống như một doanh nghiệp là họ phải tạo ra nguồn thu để trang trải cho các khoản chi và có thặng dư, song ở đó cũng phải có những điểm khác, chúng ta không thể thương mại hóa nền giáo dục, nếu vì lợi nhuận mà chúng ta bất chấp tất cả thì không có một chất lượng đào tạo theo đúng nghĩa của nó.

Tính chất kinh doanh ở các trường đại học công lập được đề cập đến là người đứng đầu các trường đại học nắm bắt và hiểu được quan hệ với thị trường, quan hệ với các đơn vị khác. Người đứng đầu chỉ chỉ đạo đơn thuần các hoạt động giảng dạy truyền thống hay có chương trình kinh doanh bên cạnh chương trình đào tạo truyền thống không? Có mở được nhiều chương trình liên kết trong đào tạo không? Có hạch toán chi phí và thu nhập hay không? Đơn cử một vài ví dụ về vấn đề kinh doanh của trường đại học: cơ sở vật chất của các trường đại học công lập có được khai thác hiệu quả thông việc sử dụng để đào tạo và cho thuê để phục vụ hoạt động đào tạo hay không? Trường đại học công lập có xây dựng chương trình liên kết đào tạo với các đơn vị sử dụng lao động không? Qua những hoạt động này cũng thể hiện được tác động định hướng kinh doanh trong đào tạo của các trường đại học công lập.

Thực tế, cho thấy ở Việt Nam đa số các trường đại học công lập để tăng khoản thu ngoài NSNN thì các trường đã tiến hành mở chương trình liên kết đào tạo với các đơn vị sử dụng lao động, tổ chức đào tạo liên thông, đào tạo từ xa, đào tạo hệ vừa làm, vừa học. Theo số liệu thống kê cho thấy, hầu hết các trường đều đào tạo các chương trình này. Nhưng những chương trình có tính chuyên sâu, thể hiện đẳng cấp trong đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội thì chưa phải là nhiều, ví dụ như chương trình đào tạo liên kết quốc tế, hợp tác quốc tế trong đào tạo, đa dạng hóa các nguồn thu khác trong trường chưa nhiều, xem Bảng 2.36

Bảng 2.36: Sự đa dạng hóa các loại hình đào tạo của các trường


Liên kết

Tỷ lệ Tự chủ tài chính tương ứng

Liên kết trong nước

39%

Liên kết quốc tế

Liên kết cả trong nước và quốc tế

60%

61%

Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, sử dụng phần mềm SPSS – Tác giả tổng hợp trên cơ sở dữ liệu của phụ lục 2

Cơ hội thu được nguồn tài chính khi đào tạo quốc tế dường như nhiều hơn, xu hướng quốc tế hóa giáo dục đang xâm nhập vào tất cả các nước kém phát triển và đang phát triển (trong đó có Việt Nam).


Thực trạng định hướng chính sách quản lý tài chính của trường đại học công lập

Sau nghị định 10/2002 và nghị định 43/2006 về giao quyền tự chủ cho đơn vị hành chính sự nghiệp, các trường đại học đều tiến hành hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ. Tuy nhiên, tính chi tiết và việc công khai giữa việc áp dụng theo quy chế chi tiêu nội bộ và khả năng giám sát của các cán bộ liên quan thì chưa chặt chẽ.

Trong tổ chức triển khai, nhiều đơn vị còn chậm trễ, lúng túng, đặc biệt là còn khó khăn trong xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ. Nhiều đơn vị còn rất lúng túng trong khi triển khai xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, đặc biệt là khả năng khai thác các nguồn thu trong khi nhu cầu chi tiêu là rất lớn, không có khả năng cân đối. Các đơn vị thường lập dự toán thu sự nghiệp thấp hơn nhiều so với thực hiện. Ví dụ, theo kết luận của nhà nước tại Bộ GD và ĐT Ngân sách năm 2002, dự toán thu, chi học phí là 455,4 tỷ đồng bằng 45% thực hiện. Nguồn thu khác 4.689 tỷ không đưa vào dự toán thu. Một số đơn vị lập dự toán thu thấp, chỉ bằng 77% thực hiện, như Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ này ở trường Đại học Kinh tế quốc dân là 42%, Trường Đại học Sư phạm hà Nội: 45,3%, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: 69,8%.

Một số trường xây dựng quy chế thi tiêu nội bộ rất chi tiết, nhưng có một số nội dung chi và mức chi không phù hợp. Ví dụ như chi trang phục, chi quản lý lớp học, chi phụ cấp ưu đãi cho giáo viên không đứng lớp.

Nội dung trong quy chế chi tiêu nội bộ của đa số các trường lấy việc nâng cao đời sống cho cán bộ công chức, giáo viên là chính, sau đó mới tính đến các nhiệm vụ phục vụ giảng dạy, học tập và nâng cao cơ sở vật chất.

Qua các bản quy chế chi tiêu nội bộ của các đơn vị được Bộ giao quyền tự chủ tài chính, đã có nhiều cố gắng trong công tác khai thác các nguồn thu và cụ thể hóa các nội dung chi cho phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, cũng còn thấy một số tồn tại như khả năng cân đối nguồn thu trong nhiều năm để đảm bảo nội dung chi chưa được vững chắc (nhất là trong điều kiện học phí chưa được tăng). Khả năng cân đối giữa việc cải thiện đời sống với việc đầu tư cơ sở vật chất còn gặp nhiều khó khăn.

So với kế hoạch và tiến độ triển khai thì một số đơn vị việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ còn chậm, từ đó thiếu hẳn tính pháp lý trong việc chi tiêu.

Việc xây dựng chính sách quản lý tài chính của trường đại học là một trong những nhân tố thể hiện được sự phát triển của nhà trường. “Có thực mới vực được đạo”, để thực hiện các kế hoạch mang tính chất chiến lược hay chiến thuật đều đòi hỏi một nguồn tài chính nhất định. Song nguồn tài chính đó phải được tích lũy nhưng vẫn đảm bảo được “dây chuyền” các hoạt động nhà trường diễn ra bình thường và hiệu quả.


Việc xây dựng chính sách quản lý tài chính của nhà trường phải gắn chặt với các mục tiêu mà nhà trường xây dựng. Thực trạng hiện nay, phần lớn các trường đại học đều không có sự rõ ràng trong việc chuyển giao phần kế hoạch đã thực hiện được hay chưa thực hiện được giữa các thế hệ Hiệu trưởng hay Giám đốc của các trường, bởi vì nhiệm kỳ của Hiệu trưởng hay giám đốc của các trường đại học là 5 năm hoặc theo Bộ chủ quản quyết định. Đặc biệt, là việc xây dựng kế hoạch phát triển của mỗi trường đại học chỉ là chủ trương của bản thân trường đó chứ không có sự liên đới trách nhiệm giữa các Bộ ngành, dẫn đến tình trạng không đạt được mục tiêu đề ra và đây là hệ quả của nền giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.

Thực trạng khả năng tự chủ nguồn thu và tự chủ các khoản chi của các trường đại học công lập

Theo nghị định 43/NĐ-CP/2006 thì quan điểm về tự chủ tài chính:

+ Thứ nhất, tự chủ về các khoản thu và mức thu: Các đơn vị sự nghiệp được quyền quyết định các khoản thu, mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy. Đối với các hoạt động thu phí, lệ phí và sản phẩm mà nhà nước đặt hàng, trường đại học thực hiện mức thu hoặc khung mức thu và đơn giá sản phẩm do nhà nước quy định.

+ Thứ hai, tự chủ về huy động vốn: Đối với các đơn vị sự nghiệp có hoạt động dịch vụ, sẽ được tiến hành vay vốn của các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ giảng viên, công nhân viên trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.

+ Thứ ba, tự chủ về sử dụng nguồn tài chính: Đơn vị sự nghiệp được quyền chủ động sử dụng nguồn kinh phí NSNN cấp bảo đảm hoạt động thường xuyên, nguồn thu sự nghiệp để hoàn thành sự nghiệp được giao. Đối với các đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoặc đảm bảo một phần chi phí hoạt động, được quyền quyết định các mức chi quản lý, chi nghiệp vụ thường xuyên hoặc cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định. Để chủ động sử dụng nguồn kinh phí cho hoạt động thường xuyên được giao đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, đơn vị sự nghiệp thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ, làm căn cứ để cán bộ viên chức thực hiện và Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát chi.

+ Thứ tư, tự chủ về sử dụng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Đơn vị sự nghiệp đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động và đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động được trích lập các quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, trả thu nhập tăng thêm cho người lao động và trích lập

quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động được chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động, chi khen thưởng, chi phúc lợi, chi tăng cường cơ sở vật chất, chi lập lũy dự phòng ổn định thu nhập.


Tuy nhiên, các quy định nhà nước đưa ra, thì việc tự chủ tài chính vẫn nằm trong giới hạn hẹp. Bởi, tự chủ các khoản thu nhưng chỉ được quyền thu trong khoảng hoặc trong đoạn giới hạn nhất định. Việc vay vốn chỉ giới hạn đối với các các đơn vị sản xuất dịch vụ, những trường hợp khác thì bị hạn chế. Ví dụ như trường hợp của trường Đại học Kinh tế quốc dân, nếu chỉ trông chờ vào số vốn Nhà nước cấp qua các năm theo các năm như quy định trong thời hạn giải ngân để xây dựng tòa nhà làm việc, thì phải cần đến vài chục năm mới xây dựng xong tòa nhà đó, sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí vốn. Trường Kinh tế quốc dân có yêu cầu được vay vốn ngân hàng để tiến hành xây dựng và khoản nhà nước cấp hàng năm sẽ sử dụng để trả lãi ngân hàng, tuy nhiên, đề nghị này không được chấp nhận.

Hoặc tự chủ về các khoản chi, Nhà nước vẫn đưa ra định mức chi không phù hợp hoặc không sát với thực tế của nền kinh tế thị trường và các văn bản quy định về tự chủ không thống nhất với nhau. Ví dụ: Nếu Nhà nước giao quyền tự chủ tài chính, khoản kinh phí mà trường có được là 40 tỷ, thì trường đại học đó được quyền chủ động chi tiêu trong 40 tỷ đồng đó. Tuy nhiên, việc chi tiêu của trường đại học bị ràng buộc bởi những quy định khác, ví dụ như: nếu mời Giáo sư về giảng dạy nâng cao trình độ kiến thức, hội thảo,… quy định của Nhà nước chỉ trả 500.000 đồng/ 01 buổi, thực tế, các trường này phải trả lên đến vài triệu đồng.

Minh chứng cụ thể về thực trạng tự chủ thu – chi của các trường đại học thông qua số liệu thống kê chọn mẫu nguồn thu của các trường đại học như sau:


Bảng 2.37: Tình hình thu chi các trường đại học trong mẫu năm học 2009 – 2010



Khối trường


Tổng thu năm 2009 (tỷ đồng)


Từ ngân sách


Từ học phí


Từ NCKH và chuyển giao công nghệ


Từ nguồn khác


Số tiền (tỷ đồng)


Tỷ lệ (%)


Số tiền (tỷ đồng)

Tỷ lệ so với tổng thu (%)


Số tiền (tỷ đồng)

Tỷ lệ so với tổng thu (%)


Số tiền (tỷ đồng)

Tỷ lệ so với tổng thu

(%)


Số tiền (tỷ đồng)

Tỷ lệ so với tổng thu

(%)

Khoa học cơ bản đa

ngành


1317,49


32,96


645,86


16,16


465,7


11,65


17,51


0,44


188,41


4,71


Kinh tế và luật


991,09


24,80


309,86


7,75


581,58


14,55


4,75


0,12


94,9


2,37


Kỹ thuật và công nghệ


494,51


12,37


261,95


6,55


174,04


4,35


30,65


0,77


27,5


0,69


Nông lâm thủy sản


294,22


7,36


134,5


3,36


99,22


2,48


15,1


0,38


45,4


1,14


Sư phạm


649,77


16,26


305,98


7,66


108,01


2,70


4,09


0,10


231,68


5,80


Văn hóa nghệ thuật


31,93


0,80


22,97


0,57


6,4


0,16


0,21


0,01


2,35


0,06


Y dược, thể thao


218,09


5,46


131,6


3,29


53,65


1,34


2,75


0,07


30,1


0,75


TỔNG


3997,1


100


1812,72


45,36


1488,6


37,24


75,06


1,88


620,34


15,52

Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, sử dụng phần mềm SPSS – Tác giả tổng hợp trên cơ sở dữ liệu của phụ lục 2

Như vậy, khả năng tự tìm các nguồn khác ngoài thu từ học phí của các trường khác là khiêm tốn. Theo số liệu bảng 2.37 trên, nguồn NSNN cấp chiếm tỷ lệ cao (45,36%), xếp hạng thứ hai trong tổng thu của các trường là thu từ học phí (chiếm 37,24%), khả năng khai thác nguồn từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở các trường của Việt Nam là rất thấp (chỉ chiếm 1,88%). Điều này cũng thể hiện một phần hạn chế về khả năng khai thác những ứng dụng tiến bộ trên thế giới vào lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học ở Việt Nam nói riêng, hiệu quả đầu tư cho NCKH, tư vấn chưa cao, chủ yếu vẫn tập trung ở thu trong lĩnh vực đào tạo.

Đối với khả năng tự chủ các khoản chi, ở các trường đại học chủ yếu là chi thường xuyên, trong chi thường xuyên chủ yếu là chi lương và các khoản có tính chất lương. Tuy nhiên, việc chi trả lương cho cán bộ giảng viên lại chi trả theo quy định trả cho công nhân, viên chức nhà nước, có hệ số thang bảng lương rõ ràng, phần thu nhập tăng thêm phải dựa trên cơ sở các nguồn thu khác.


Song theo số liệu thực tế thì nguồn thu khác rất khiêm tốn nên khả năng tăng thu nhập cho giáo viên là một bài toán chưa lời giải tại các trường đại học nếu không có cơ chế tài chính rõ ràng.

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài chính các trường đại học công lập Việt Nam

2.3.1. Những thành tựu đạt được

Đánh giá chung về chính sách quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công lập

- Giai đoạn trước năm 2002

Trước năm 2002, khi Chính phủ chưa ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) có thu, các trường đại học nói riêng và các đơn vị SNCL nói chung áp dụng cơ chế quản lý tài chính giống như đối với các cơ quan hành chính nhà nước.

Về bản chất hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị SNCL là hoàn toàn khác nhau. Cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động KTXH. Đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó các trường đại học có tư tưởng ỷ lại và thụ động trông chờ vào kinh phí NSNN cấp, bị gò bó và không có động lực thực hiện theo hướng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và nguồn tài chính trong phát triển giáo dục để đáp ứng nhu cầu học

tập đa dạng của xã hội.

- Giai đoạn từ 2002 đến tháng 4 năm 2006

Quán triệt tinh thần Nghị quyết VII, VIII và IX của Đảng về cải cách tài chính công, phân biệt rõ quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp có thu, phát triển giáo dục theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá”; quản lý tài chính đối với đơn vị công lập có thu đã được đổi mới. Các đơn vị sự nghiệp có thu được thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo quy định của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành có liên quan như Thông tư số 25/2002/TT-BTC và thông tư số 50/2002/TT-BTC của Bộ tài chính, Thông tư số 21/2003/TTLT- BTC-BGD&ĐT-BNV của liên tịch Bộ tài chính - Bộ Giáo dục và đào tạo - Bộ nội vụ.

* Nội dung cơ bản của cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu

Các đơn vị được cấp có thẩm quyền giao ổn định dự toán kinh phí hoạt động thường xuyên do NSNN cấp theo định kỳ 3 năm, được chủ động khai thác nguồn thu sự nghiệp và các nguồn thu khác để phát triển hoạt động của đơn vị.

Thu học phí, lệ phí tuyển sinh theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Phí dịch vụ đào tạo, cấp chứng chỉ và các khoản thu từ hoạt động liên kết đào tạo, cung ứng dịch vụ và khai thác CSVC…do thủ trưởng đơn vị quyết định. Ngoài ra, các đơn vị còn có các khoản thu


khác như tiền lãi gửi ngân hàng, các khoản đóng góp tự nguyện, viện trợ, biếu tặng của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước.

Các trường đại học được vay tín dụng ngân hàng, vay Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng Phát triển Việt Nam), huy động vốn hợp pháp từ các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật để mở rộng quy mô, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục cung cấp cho xã hội.

Các trường đại học được tự chủ sử dụng kinh phí NSNN cấp cho hoạt động thường xuyên và nguồn thu sự nghiệp dựa trên cơ sở chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành của Nhà nước.

Thủ trưởng đơn vị được chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội bộ về quản lý và nghiệp vụ cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định phù hợp với đặc thù của đơn vị trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng.

Theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ; căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính trong năm, quỹ tiền lương của đơn vị được xác định trên cơ sở hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu không quá 2 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ (Đối với đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động) và không quá 2,5 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ (Đối với đơn vị đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động) so với mức tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định. Thủ trưởng đơn vị tự quyết định phương án chi trả tiền lương cho người lao động trong đơn vị theo số lượng, chất lượng và hiệu quả thực hiện công việc của từng người.

Khi Nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương tối thiểu hoặc thay đổi định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi NSNN, đơn vị tự trang trải các khoản chi tăng thêm từ nguồn thu sự nghiệp, tiết kiệm chi, các quỹ của đơn vị và kinh phí NSNN cấp tăng thêm hàng năm (đối với đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí)

Hàng năm, sau khi trang trải toàn bộ chi phí hoạt động và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN, chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị được trích lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.

Các trường đại học là đơn vị sự nghiệp có thu được chủ động sử dụng số biên chế được cấp có thẩm quyền giao, thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật.

Tài sản cố định sử dụng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ, đơn vị thực hiện trích khấu hao thu hồi vốn theo chế độ áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Số tiền trích khấu hao tài sản cố định và tiền thu do thanh lý tài sản thuộc nguồn NSNN được để lại đầu tư tăng cường CSVC, đổi mới trang thiết bị của đơn vị.

Kinh phí NSNN cấp bảo đảm hoạt động thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp của đơn vị, cuối năm chưa chi hết được chuyển sang năm sau để tiếp tục chi.

Xem tất cả 246 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí