Tác Động Của Du Lịch Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội


lịch sử văn hóa…gắn liền với mỗi địa phương. Đặc điểm này khiến nhiều sản phẩm du lịch là không thể di chuyển. Hay nói một cách khác, chúng ta không thể đưa sản phẩm du lịch đến tay người tiêu dùng mà có thể đưa khách hàng đến nơi có sản phẩm du lịch để giúp họ thỏa mãn nhu cầu thông qua việc tiêu dùng sản phẩm.

- Đối tượng khách hàng có nhu cầu không đồng nhất và khó định lượng: Đối tượng khách hàng của du lịch rất đa dạng và phong phú. Mỗi khách hàng có một sở thích khác nhau, yêu thích các sản phẩm du lịch khác nhau tùy thuộc vào sở thích, tuổi tác, giới tính, tâm lý. Vì vậy, để có thể thu hút đông đảo lượng du khách đến ghé thăm, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương có điểm du lịch cần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đa dạng hóa các loại hình du lịch để có thể thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của du khách.

1.1.1.3. Phân loại du lịch

* Căn cứ vào mục đích chuyến đi

- Du lịch thiên nhiên: Loại hình du lịch này hấp dẫn những người thích tận hưởng bầu không khí ngoài trời, thích thưởng thức những phong cảnh đẹp và đời sống thực vật hoang dã. Những người đi du lịch trong nhóm này muốn tìm đến vẻ đẹp và đời sống hoang sơ của thiên nhiên.

- Du lịch văn hóa: Loại hình này thu hút những người mà mối quan tâm chủ yếu của họ là truyền thống lịch sử, phong tục tập quán, nền văn hóa nghệ thuật… của điểm đến. Những du khách này sẽ viếng thăm các viện bảo tàng, nghỉ tại các quán trọ đồng quê, tham dự các lễ hội truyền thống và các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian của địa phương.

- Du lịch xã hội: Hấp dẫn những người mà đối với họ sự tiếp xúc, giao lưu với những người khác là quan trọng nhất. Đối với một số người khi được đồng hành với các thành viên của một nhóm xã hội trong các tour du lịch cũng làm họ thỏa mãn, hài lòng. Một số người khác tìm kiếm cơ hội được hòa


nhập với cư dân bản xứ ở điểm đến. Thăm gia đình cũng có thể được bao hàm trong loại này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Du lịch hoạt động: Loại hình du lịch này thu hút khách bằng một hoạt động xác định trước và thách thức phải hoàn thành trong chuyến đi, trong kỳ nghỉ của họ. Một số du khách muốn thực hành và hoàn thiện vốn ngoại ngữ của mình khi đi du lịch nước ngoài. Một số người khác muốn thám hiểm, khám phá cấu tạo địa chất của một khu vực nhất định.

- Du lịch giải trí: Loại hình này nảy sinh từ nhu cầu nghỉ ngơi, thư giãn để phục hồi thể lực và tinh thần cho con người. Loại hình du lịch này thu hút những người mà lý do chủ yếu của họ đối với chuyến đi là sự hưởng thụ và tận hưởng kỳ nghỉ. Họ thường đến những bờ biển đẹp, tắm dưới ánh nắng mặt trời, tham gia vào các hoạt động như cắm trại, các trò chơi có tổ chức và học các kỹ năng mới.

Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn - 3

- Du lịch thể thao: Thu hút những người ham mê thể thao để nâng cao thể chất, sức khỏe. Tham gia chơi các môn thể thao như quần vợt, đánh gôn, bóng chuyền bãi biển, lướt són, trượt tuyết, đi xe đạp đường trường…là những ví dụ cho các hoạt động phù hợp với loại hình du lịch này.

- Du lịch chuyên đề: Loại hình du lịch này liên quan đến một nhóm nhỏ, ít người đi du lịch với cùng mục đích chung hoặc mối quan tâm đặc biệt nào đó chỉ đối với riêng họ. Ví dụ như: những người kinh doanh xe ô tô đến thăm một nhà máy sản xuất ở nước ngoài hoặc một nhóm sinh viên đi một tour thực tập, nghiên cứu.

- Du lịch tôn giáo: Thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các đạo phái khác nhau. Nó bộc lộ trong các cuộc hành hương đến những nơi có ý nghĩa tâm linh hay những địa điểm tôn giáo được tôn kính. Đây là loại hình du lịch lâu đời nhất và vẫn còn phổ biến đến ngay nay.

- Du lịch sức khỏe: Hấp dẫn những người tìm kiếm cơ hội cải thiện điều kiện thể chất của mình. Các khu an dưỡng, nghỉ mát ở vùng núi cao hoặc


ven biển, các điểm có suối nước nóng hoặc nước khoáng là những nơi điển hình tạo ra loại du lịch này.

- Du lịch dân tộc học: Loại du lịch này đặc trưng hóa cho những người quay trở về quê cha đất tổ tìm hiểu lịch sử, nguồn gốc của quê hương, dòng doi gia đình hoặc tìm kiếm khôi phục các truyền thống văn hóa bản địa.

* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ

- Du lịch quốc tế: Liên quan đến các chuyến đi vượt qua khỏi phạm vi lãnh thổ (biên giới) quốc gia của khách du lịch. Chính vì vậy, du khách thường gặp phải ba cản trở chính trong chuyến đi đó là: ngôn ngữ, tiền tệ và thủ tục đi lại. Cùng với dòng du khách, hình thức du lịch này tạo ra dòng chảy ngoại tệ giữa các quốc gia và do đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia. Loại hình du lịch này được phân chia thành hai loại nhỏ:

+ Du lịch quốc tế đến: Là chuyến viếng thăm của những người từ các quốc gia khác.

+ Du lịch ra nước ngoài: Là chuyến đi của cư dân trong nước đến một nước khác.

- Du lịch nội địa: Bao gồm du lịch trong nước và du lịch quốc tế đến. Trong đó, du lịch trong nước là những chuyến đi của cư dân chỉ trong phạm vi quốc gia của họ.

- Du lịch quốc gia: Bao gồm du lịch nội địa và du lịch ra nước ngoài.

* Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với điểm đến du lịch

- Du lịch thám hiểm: Bao gồm các nhà nghiên cứu, học giả, người leo núi và những nhà thám hiểm đi theo các nhóm với số lượng nhỏ. Họ sử dụng đồ dùng cá nhân, thức ăn chuẩn bị trước và hầu như không tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, loại hình du lịch này ảnh hưởng không đáng kể tới kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường của điểm đến.

- Du lịch thượng lưu: Chuyến đi của tầng lớp thượng lưu đến những nơi độc đáo để giải trí và tìm kiếm sự mới lạ. Bên cạnh việc sử dụng các tiện


nghi giành cho khách du lịch thì họ cũng dễ dàng thích nghi với các điều kiện địa phương. Số lượng khách của nhóm này tương đối ít, có nhu cầu về những sản phẩm du lịch chất lượng cao và không đàn hồi theo giá cả. Chuyến du lịch của họ có thể dẫn tới những hoạt động đầu tư sau này có lợi cho điểm đến.

- Du lịch khác thường: Khách du lịch thích đến những nơi xa xôi, hoang dã, quan tâm đến những nền văn hóa sơ khai hoặc tìm kiếm những phần bổ sung thêm (không có) trong một tour du lịch tiêu chuẩn. Họ thích nghi tốt và chấp nhận các điều kiện về sản phẩm, dịch vụ du lịch do địa phương cung cấp.

- Du lịch đại chúng tiền khởi: Một dòng khách du lịch ổn định đi theo một nhóm nhỏ hoặc cá nhân đến các nơi an toàn, phổ biến, khí hậu phù hợp. Họ tìm kiếm các tiện nghi và dịch vụ tiêu chuẩn nhưng cũng dễ dàng chấp nhận các điều kiện chưa đảm bảo tiêu chuẩn của địa phương. Đây là sự mở đầu và phát sinh hình thức du lịch đại chúng (đại quy mô) sau này.

- Du lịch đại chúng: Một số lượng lớn khách du lịch tạo thành dòng chảy liên tục tràn ngập các khu nghỉ mát nổi tiếng vào các mùa du lịch. Khách du lịch thường thuộc tầng lớp trung lưu và họ mong muốn các tiện nghi đạt tiêu chuẩn, nhân viên phục vụ được đào tạo và hướng dẫn viên du lịch biết nhiều ngoại ngữ. Loại hình du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển du lịch ở cả quốc gia gửi khách lẫn các quốc gia đón khách, các điểm đến du lịch.

- Du lịch thuê bao: Đây là loại hình du lịch phát triển rộng rãi, thị trương phát triển đến các tầng lớp có nhu cầu trung bình và thấp nên có dung lượng lớn. Với số lượng lớn, dòng khách ồ ạt, chi tiêu của du khách tạo ra nguồn thu nhập lớn đối với cơ sở kinh doanh và khu vực điểm đến.

* Một số tiêu chí phân loại khác

- Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm đến du lịch: Bao gồm du lịch biển, du lịch núi, du lịch thành phố (đô thị), du lịch nông thôn (đồng quê, trang trại, miệt vườn).


- Căn cứ vào phương tiện giao thông: Bao gồm du lịch xe đạp và các phương tiện thô sơ (xích lô, xe ngựa, lạc đà), du lịch xe máy, du lịch ô tô, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy…Trong loại hình này cần chú ý, du khách có thể có nhu cầu về dịch vụ chuyên chở hoặc thuê phương tiện vận chuyển.

- Căn cứ vào phương tiện lưu trú: Bao gồm du lịch ở khách sạn, motel, nhà trọ, bãi cắm trại, làng du lịch…

- Căn cứ vào thời gian du lịch: Bao gồm du lịch dài ngày và du lịch ngắn ngày.

- Căn cứ vào lứa tuổi: Bao gồm du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên, du lịch trung niên, du lịch cao niên.

- Căn cứ vào hình thức tổ chức du lịch: Bao gồm du lịch theo đoàn, du lịch gia đình và du lịch cá nhân (du lịch ba lô).

- Căn cứ vào phương thức hợp đồng: Bao gồm du lịch trọn gói và du lịch từng phần.

1.1.1.4. Tác động của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

* Tác động tích cực

- Góp phần phát triển kinh tế và tăng trưởng bền vững: Hoạt động du lịch có quan hệ với các hoạt động khác và tạo thu nhập quan trọng cho ngân sách của quốc gia và địa phương có tuyến điểm du lịch. Hoạt động du lịch dựa trên các tài nguyên du lịch phong phú, các giá trị về di sản văn hóa, âm nhạc, đời sống dân cư và môi trường, khí hậu. Các sản phẩm du lịch được tiêu dùng ở nơi sản xuất, đồng thời tạo nên khả năng sản xuất các sản phẩm được tiêu thụ bởi du lịch và du lịch cần đáp ứng. Từ đó, hoạt động du lịch sẽ tạo ra thu nhập qua hệ thống cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch phát triển góp phần kích thích đầu tư trong nước và ngoài nước, qua đó làm tăng tổng cầu và tăng trưởng kinh tế địa phương. Chính vì vậy, phát triển hoạt động du lịch không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn tác động làm gia tăng nguồn thu ở các ngành khác.


- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Hoạt động du lịch là một hoạt động phức tạp, trong đó chi tiêu du lịch liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, khi hoạt động du lịch phát triển, nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Hoạt động du lịch phát triển sẽ góp phần gia tăng giá trị dịch vụ, đồng thời tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP sẽ giảm dần và tỷ trọng khu vực dịch vụ sẽ tăng lên.

- Tạo việc làm, tăng thu nhập: Sự phát triển hoạt động du lịch góp phần tăng quy mô việc làm, thu nhập của người dân và xã hội. Hoạt động du lịch sử dụng nhiều lao động, do đó, phát triển hoạt động du lịch sẽ góp phần tích cực tạo việc làm cho một lực lượng lao động xã hội và cải thiện đời sống cho người dân địa phương. Hoạt động du lịch có nhu cầu về lao động cao cả về lao động trực tiếp (người làm việc tại các doanh nghiệp lữ hành, cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh du lịch, điểm du lịch, vận chuyển du lịch, nhà hàng, bán lẻ và các cơ sở giải trí), cũng như lao động gián tiếp (từ các hoạt động kinh tế khác, làm việc cho các cơ sở cung ứng cho hoạt động du lịch).

- Thúc đẩy liên kết giữa các địa phương, quốc gia, vùng: Hoạt động du lịch tác động làm hình thành các mối quan hệ kinh tế giữa các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, giữa các địa phương của các quốc gia. Du lịch quốc tế làm hình thành, phát triển ngành giao thông quốc tế, quan hệ ngoại hối quốc tế để đáp ứng nhu cầu của du khách quốc tế. Du lịch đóng góp cho lĩnh vực xuất khẩu với hiệu quả cao thông qua “xuất khẩu tại chỗ” và “xuất khẩu vô hình”. “Xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa theo giá bán lẻ cao cho du khách và thông qua con đường du lịch nên không phải chịu thuế mậu dịch quốc tế. “Xuất khẩu vô hình” sản phẩm du lịch như cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị di tích lịch sử - văn hóa, truyền thống phong tục tập quán đến với người dân ở các nước khác


trên thế giới. Phát triển hoạt động du lịch còn góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho địa phương để xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển địa phương đồng thời xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động du lịch là cần thiết và có lợi cho cả đôi bên.

- Thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau: Điều này làm cho các quốc gia, dân tộc hiểu nhau hơn và giúp cho việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Khi thực hiện các chuyến du lịch, người ta có dịp trực tiếp đối thoại, tìm hiểu lẫn nhau giữa du khách hoặc với cộng đồng dân cư tại nơi đến du lịch, nên con người có cơ hội để thông cảm, hiểu biết nhau hơn. Thông qua hoạt động du lịch tăng cường được các mối quan hệ xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Thông qua du lịch, du khách sẽ tăng sự hiểu biết về văn hóa, xã hội của quốc gia và địa phương, tạo ra sự giao thoa về văn hóa giữa các vùng, các miền, các dân tộc trên thế giới; phát triển tình đoàn kết, hữu nghị, thân ái của nhân dân giữa các vùng, địa phương, các quốc gia với nhau.

* Tác động tiêu cực

- Gây áp lực lên kết cấu hạ tầng địa phương, đặc biệt khi du lịch tăng đột biến: Hoạt động du lịch gia tăng, tăng đột biến hoạt động lữ hành, hoạt động lưu trú làm gia tăng áp lực đối với nguồn cung khách sạn, cơ sở lưu trú phục vụ du khách. Bên cạnh đó, cũng làm gia tăng áp lực về điều kiện phương tiện vận tải và đường sá đảm bảo nhu cầu đi lại và các cơ sở phục vụ du lịch để đáp ứng nhu cầu du khách.

- Gây áp lực cho quản lý nhà nước: để đảm bảo cho yêu cầu du lịch và sự phát triển của hoạt động du lịch ngày càng gia tăng, đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi thu hút du khách đến du lịch địa phương và các cơ sở kinh doanh du lịch tham gia hoạt động du lịch. Ngoài ra, đòi hỏi quản lý nhà nước phải đảm bảo vai trò


của mình thúc đẩy phát triển hoạt động du lịch, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn cho du khách.

- Nguy cơ làm phương hại các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc: Hoạt động du lịch có thể gây ảnh hưởng tiêu cực thông qua hành vi của du khách. Hành vi, văn hóa xấu của du khách có thể xâm hại đến văn hóa, làm thay đổi lối sống, truyền thống văn hóa của địa phương.

- Nguy cơ mất an ninh, an toàn: Hoạt động du lịch có thể gây ra các tệ nạn xã hội như du lịch tội phạm, ma túy, mại dâm, văn hóa đồi trụy, tour 0 đồng "chặt chém" du khách, lây lan dịch bệnh.

- Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường: Hoạt động du lịch quá mức có thể gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên. Lượng du khách gia tăng ở điểm du lịch sẽ làm gia tăng rác thải, ảnh hưởng đến sức chứa, gia tăng nhu cầu phục vụ, từ đó, sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên.

1.1.2. Quản lý nhà nước về du lịch

1.1.2.1. Khái niệm Quản lý nhà nước về du lịch

- Khái niệm Quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (Đỗ Thị Hải Hà, 2010). Bản chất của quản lý nhà nước là quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và được thực hiện bởi bộ máy nhà nước với cơ sở vật chất - tài chính to lớn, bằng phương pháp thuyết phục và cưỡng chế.

- Khái niệm Quản lý nhà nước về du lịch

Từ khái niệm về quản lý nhà nước ở trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về du lịch là quá trình tác động của nhà nước đến du lịch thông qua hệ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/11/2023