ngành du lịch tại địa phương, các cơ quan nhà nước ở địa phương cần chỉ đạo thực hiện các luật lệ, chính sách của Trung ương ban hành có hiệu quả ở địa phương mình, ban hành các văn bản QLNN tại địa phương xuất phát từ yêu cầu quản lý phát triển ngành ở địa phương nhưng không trái với luật pháp của Nhà nước. Mục đích là thiết lập môi trường pháp lý để đưa các hoạt động du lịch vào khuôn khổ, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản, các chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Không tùy tiện thay đổi các chính sách của mình, xóa bỏ các văn bản cũ trái với các văn bản mới ban hành, giảm tối đa sự trùng lắp gây khó khăn cho hoạt động du lịch.
Việc ban hành các văn bản QLNN phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, vừa phải thông thoáng trên cơ sở sử dụng nguồn lực của địa phương để khuyến khích phát triển. Phải đảm bảo tính ổn định, bình đẳng và nghiêm minh trong quá trình thực thi văn bản QLNN.
1.2.3.2. Tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý nhà nước về du lịch
Du lịch là hoạt động mang tính liên ngành, do đó QLNN đối với hoạt động du lịch phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động du lịch phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy QLNN phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, đồng thời các cơ quan trong bộ máy đó phải luôn được phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo du lịch luôn có sự thống nhất trong tổ chức và hoạt động.
Điều 75, Luật Du lịch năm 2017 xác định trách nhiệm QLNN về du lịch của UBND các cấp với nội dung cụ thể: “1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương; cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế tại địa phương. 2. Ủy ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư để khai thác tiềm năng, thế mạnh về du lịch của địa phương; hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng; b) Quản lý tài nguyên du
lịch, khu du lịch, điểm du lịch, hoạt động kinh doanh du lịch và hướng dẫn du lịch trên địa bàn; c) Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, an toàn thực phẩm tại khu du lịch, điểm du lịch, nơi tập trung nhiều khách du lịch; d) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân để bảo đảm môi trường du lịch thân thiện, lành mạnh và văn minh; đ) Tổ chức bố trí nơi dừng, đỗ cho các phương tiện giao thông đã được cấp biển hiệu phương tiện vận tải khách du lịch để tiếp cận điểm tham quan du lịch, cơ sở lưu trú du lịch; tổ chức rà soát, lắp đặt biển báo, biển chỉ dẫn vào khu du lịch, điểm du lịch; e) Tổ chức tiếp nhận và giải quyết kiến nghị của khách du lịch; g) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này” [34]. Như vậy, theo nội dung điều này thì tại địa bàn cấp huyện, cơ quan thực hiện nhiệm vụ QLNN về du lịch trên địa bàn là UBND cấp huyện. Ngoài ra, UBND cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình cũng hỗ trợ UBND cấp huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN về du lịch trên địa bàn cấp huyện.
Mặt khác, theo khoản 3, Điều 28, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng khẳng định về vị trí, vai trò của UBND cấp huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN về du lịch, cụ thể: “Tổ chức thực hiện ngân sách huyện; thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, mạng lưới giao thông, thủy lợi, xây dựng điểm dân cư nông thôn; quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, tài nguyên thiên nhiên khác; bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện theo quy định của pháp luật” [33].
Để thực hiện nhiệm vụ QLNN nói chung và QLNN về du lịch nói riêng trên địa bàn cấp huyện, UBND cấp huyện thành lập các cơ quan chuyên môn để tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện với chức năng được nêu rõ tại khoản 1, Điều 3, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: “Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban
nhân dân cấp huyện và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương” [9]. Theo nội dung tại khoản 6, Điều 7, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP thì Phòng VHTT là cơ quan có chức năng: “Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuất bản; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại; hạ tầng thông tin” [9]. Như vậy, UBND cấp huyện là cơ quan QLNN về du lịch trên địa bàn cấp huyện và Phòng VHTT thuộc UBND cấp huyện là cơ quan chuyên môn có chức năng tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN về du lịch trên địa bàn cấp huyện.
Nhằm cụ thể hóa chức năng tham mưu, giúp việc của Phòng Văn hóa – Thông tin, ngày 14/9/2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tại Chương II của Thông tư đã quy định cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, cơ cấu và tổ chức biên chế của Phòng VHTT, đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc trong QLNN về du lịch trên địa bàn cấp huyện của cơ quan này.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng - 2
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng - 3
- Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch Trên Địa Bàn Cấp Huyện
- Kinh Nghiệm Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch Của Một Số Địa Phương
- Điều Kiện, Tiềm Năng Phát Triển Du Lịch Của Thành Phố Đà Lạt
- Hoạt Động Du Lịch Tại Thành Phố Đà Lạt Giai Đoạn 2014 - 2018
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND cấp huyện như Phòng Tài chính – Kế hoạch, Phòng Kinh tế - Hạ tầng, Phòng Quản lý đô thị... trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện và hỗ trợ Phòng VHTT trong công tác QLNN về du lịch trên địa bàn cấp huyện.
1.2.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành du lịch
Cũng như các lĩnh vực khác, chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động du lịch cũng ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của lĩnh vực này. Bởi lẽ, từ cạnh tranh toàn cầu, cạnh tranh quốc gia, giữa các ngành các doanh nghiệp cho đến cạnh
tranh từng sản phẩm suy cho cùng là cạnh tranh bằng trí tuệ của nhà quản lý và chất lượng nguồn nhân lực. Để hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương phát triển, việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch cần được quan tâm thực hiện thường xuyên. Đặc biệt, những địa phương có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch cần phải có chiến lược, kế hoạch phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có như vậy mới khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
1.2.3.4. Quản lý các hoạt động xúc tiến, quảng bá, đầu tư cho du lịch, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch
Nhà nước quy định cơ chế thực hiện hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch. Nhà nước đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến du lịch với các hình thức linh hoạt như: tham gia hội chợ du lịch quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp du lịch trong nước tham gia vào hoạt động xúc tiến du lịch trong và ngoài nước, thành lập các văn phòng đại diện du lịch Việt Nam ở nước ngoài, hợp tác quốc tế trong thực hiện các chương trình giới thiệu hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, thuê sóng các kênh nổi tiếng nước ngoài phát sóng giới thiệu về vẻ đẹp tiềm ẩn của du lịch Việt Nam… Tranh thủ hợp tác quốc tế trong các hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước, từng bước tạo dựng và nâng cao hình ảnh du lịch trên bình diện quốc tế; nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của nhân dân về vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Để những văn bản luật, những văn bản QLNN về du lịch được áp dụng nhanh chóng và chính xác cho các đối tượng có liên quan thì cần phải có sự tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thông tin một cách thường xuyên và liên tục. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thông tin phải được tiến hành rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và ở khắp mọi nơi nhằm giúp cho nâng cao ý thức của các cá nhân, chủ thể khi tham gia hoạt động du lịch.
1.2.3.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch
Sự phát triển nhanh của du lịch sẽ làm phát sinh các hành vi tiêu cực như phát sinh các hành vi tiêu cực như khai thác quá mức các công trình, khu, điểm du
lịch, làm ô nhiễm môi trường sinh thái, những hoạt động kinh doanh du lịch trái với bản sắc văn hóa của đất nước, của địa phương…Do đó, cơ quan nhà nước phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với hoạt động du lịch để phòng ngừa hoặc ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực có thể xảy ra. Để thực hiện tốt nội dung này, cơ quan nhà nước cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và những quy định của tỉnh về đầu tư khai thác các điểm, khu du lịch trên địa bàn; thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo đăng ký kinh doanh, nhất là những hoạt động kinh doanh có điều kiện như: kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành,...đồng thời cần xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về du lịch trên địa bàn.
1.2.4. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội.
Nhà nước ra đời là nhằm thực hiện vai trò, chức năng quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Bất cứ một lĩnh vực hoạt động nào cũng cần đến sự quản lý, điều tiết của nhà nước nhằn đảm bảo an ninh trật tự, phát triển kinh tế và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, và du lịch cũng không ngoại lệ. Du lịch là một hiện tượng, một yếu tố cấu thành nên các hình thái kinh tế xã hội. Bên cạnh các quy luật chung, nó hình thành, vận động và phát triển theo những quy luật riêng của mình. Thực chất quá trình quản lý các hoạt động du lịch là việc tác động đến chúng nhằm thực hiện các mục tiêu đã định trước. Chính vì vậy, để đảm bảo cho ngành kinh tế du lịch phát triển ổn định, phát huy được tối đa những lợi ích và những hạn chế, tiêu cực thì cần phải có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước cần thể hiện vai trò của mình để đảm bảo ngành du lịch phát triển theo định hướng, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, sự quản lý của nhà nước đảm bảo cho du lịch phát triển ổn định, phát huy tối đa những lợi thế và hạn chế của những mặt trái.
Nhà nước là người đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền trong Hiến pháp của công dân nói chung và văn hóa nói riêng, điều tiết sự phát triển hài hòa, phù hợp với sự phát triển của du lịch, lợi ích văn hóa của các nhóm xã hội, các yêu
cầu phát triển và thỏa mãn du lịch của các dân tộc, các vùng miền trên lãnh thổ cả nước. Nhà nước sử dụng tất cả các biện pháp có thể để can thiệp vào hoạt động du lịch nhằm tạo ra môi trường du lịch lành mạnh, phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hòa, phù hợp với giá trị và văn hóa của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Mặt khác, với tính chất mà một ngành kinh tế - xã hội mang lại những hiệu quả tổng hợp, cũng như các ngành kinh tế khác, du lịch muốn phát triển bền vững không thể đặt ngoài sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Điều này xuất phát từ bản chất của du lịch là một lĩnh vực kinh tế mang tính đặc thù rõ nét, bên cạnh các quy luật chung, du lịch được hình thành, vận động và phát triển theo những quy luật riêng của mình. Theo đó, ngoài những tác động tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước, hoạt động này cũng làm nảy sinh nhiều mặt tiêu cực, đặc biệt là đối với môi trường. Chính vì vậy, để đảm bảo cho ngành du lịch phát triển không thể thiếu sự quản lý của nhà nước.
Thứ ba, góp phần vào sự phát triển của du lịch và thúc đẩy các ngành khác phát triển.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, du lịch có quan hệ chặt chẽ với các ngành khác như giao thông, thuế, tài chính, điện, bưu điện,…Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ qua lại chặt chẽ, sự phát triển của du lịch thúc đẩy các ngành khác phát triển và ngược lại, sự phát triển của các ngành khác góp phần không nhỏ để du lịch phát triển. Do vậy, phải xác định phát triển du lịch là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành có liên quan, đồng thời có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ để phát huy một cách có hiệu quả mối quan hệ giữa du lịch và các ngành khác. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước có liên quan đến hoạt động du lịch sẽ tạo hiệu quả rộng lớn hơn, thúc đẩy tăng trưởng các yếu tố tích cực, hạn chế, khắc phục các yếu tố tiêu cực do hoạt động kinh doanh du lịch mang lại. Sự phối hợp này thể hiện thông qua việc xây dựng các quy chế liên ngành giữa các cơ quan QLNN về du lịch với các cơ quan ban ngành có liên quan… nhằm tạo ra cơ chế “một cửa” trong QLNN đối với du lịch và các hoạt động liên quan.
Thứ tư, nhà nước góp phần định hướng sự phát triển của du lịch bằng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của hoạt động du lịch và ngành du lịch.
Cụ thể là nhà nước không buông lỏng hay thả nối công tác quy hoạch, kế hoạch nhưng phải đổi mới công tác đó cho phù hợp với yêu cầu xã hội, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần phát huy tối đa mọi lợi thế về du lịch và các hoạt động phục vụ du lịch của quốc gia, vùng và địa phương. Thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của ngành du lịch nói riêng. Thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành du lịch, nhà nước sẽ định hướng cho các hoạt động du lịch phát triển theo hướng tích cực với việc khai thác hiệu quả và bền vững các tài nguyên du lịch, nhất là tài nguyên du lịch tự nhiên và lịch sử.
Thứ năm, sự quản lý của nhà nước sẽ tạo ra tính chất công bằng trong hoạt động kinh doanh du lịch.
Nó giúp cho các chủ thể kinh doanh du lịch hoạt động trong khuôn khổ cho phép, xóa bỏ dần các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn minh, hoặc đơn thuần chỉ chạy theo lợi nhuận mà phá hoại môi trường sinh thái, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội. Cơ quan QLNN không chỉ đơn thuần là kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp mà còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Du lịch là hoạt động liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, nếu buông lỏng QLNN để tự nó phát triển, hoạt động du lịch sẽ bị chệch hướng, thị trường bị lũng đoạn, tài nguyên du lịch bị khai thác kiệt quệ, không đảm bảo phát triển du lịch bền vững.
Như vậy, QLNN về du lịch là việc làm không thể thiếu và thực sự rất cần thiết đối với sự phát triển của đất nước nói chung và ngành du lịch nói riêng.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện
1.2.5.1. Nhóm nhân tố khách quan
Thứ nhất, môi trường an ninh, chính trị.
Trong QLNN về du lịch ở địa phương phải đảm bảo môi trường an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội hòa bình, ổn định. Địa phương có môi trường an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội, ổn định tạo điều kiện phát triển du lịch, có sức thu hút đối với du khách vì họ có cảm giác an toàn, yên ổn và đảm bảo trong chuyến du lịch. Ngược lại, địa phương sẽ không thu hút được du khách, nếu không đảm bảo được an toàn, khó khăn trong việc đi lại, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bị tàn phá. Điều đó ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch. Xu hướng phổ biến hiện nay là du khách luôn tìm đến những nơi có điều kiện an ninh, chính trị ổn định, nhằm đảm bảo sự an toàn cho chuyến đi.
Thứ hai, vị trí địa lý và tài nguyên du lịch.
Vị trí địa lý cũng có vai trò quan trọng đối với QLNN về du lịch. Vị trí địa lý được coi là thuận lợi đối với du lịch gồm điểm du lịch nằm trong khu vực phát triển du lịch, khoảng cách từ điểm du lịch đến các nguồn gửi khách du lịch không quá xa (khách không mất nhiều thời gian và chi phí đi lại trong chuyến du lịch của mình). Trong một số trường hợp, khoảng cách xa lại có sức hút đối với du khách có khả năng thanh toán cao và có tính hiếu kỳ. Thành phố (cấp huyện) là trung tâm kinh tế, công nghiệp, dịch vụ, đầu mối giao thông và những lợi thế khác sẽ thu hút du khách mạnh hơn. Có vị trí địa lý thuận lợi, chính quyền sẽ tạo được mối liên hệ, liên kết với các vùng khác trong sự phát triển của đô thị và du lịch.
Hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội, điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và tài nguyên du lịch, danh lam thắng cảnh, công trình, di sản văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán,… là yếu tố giúp cho việc QLNN về du lịch hiệu quả. Đây là cơ sở để khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu của du khách, thu hút đa dạng du khách và giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch.
Thứ ba, điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyện
Điều kiện về kinh tế sẽ có tác động đến QLNN về du lịch. Khi địa phương có một nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho việc khai thác hiệu quả hoạt động du lịch. Với nền kinh tế phát triển, sẽ đảm bảo cung cấp hàng hóa thiết yếu cho du lịch và nguồn vốn để duy trì, phát triển du lịch cũng như thiết lập các mối quan hệ