Giải Pháp Riêng Đối Với Bộ Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch

Quan niệm quá đơn giản như trên là không phổ quát, bởi lẽ nó không thể điều chỉnh được quyền nhân thân đối với tác phẩm mà các ví dụ sau đây là minh chứng:

Một bài thơ được công bố, sau đó một nhạc sĩ phổ nhạc cho bài thơ thành bài hát, giả định rằng tác giả bài thơ chỉ biết đến bài hát khi nó được công bố. Nếu coi bài hát (bao gồm phần nhạc và phần lời) là một tác phẩm đồng tác giả thì pháp luật không thể điều chỉnh được khi xảy ra tranh chấp về quyền nhân thân giữa các đồng tác giả, bởi lẽ ngoài việc mỗi đồng tác giả có các quyền nhân thân đối với phần riêng biệt của mình thì họ còn có quyền nhân thân chung đối với toàn bộ tác phẩm đồng tác giả;

Tác giả của một bản nhạc không lời đã chết, một người viết thêm lời vào bản nhạc thành bài hát có lời, nếu quan niệm như trên thì phải coi bài hát là một tác phẩm đồng tác giả vì đã có hai tác giả cùng sáng tạo nên một tác phẩm, như trường hợp nhạc sĩ Dương Thụ và ca sĩ Mỹ Linh đối với Album “Chat với Mozar”.

Để hoàn thiện vấn đề này, nên tham khảo quy định về tác phẩm đồng tác giả trong Luật quyền tác giả của Hoa Kỳ: “Tác phẩm đồng tác giả là tác phẩm được sáng tạo bởi hai hoặc nhiều tác giả với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành các phần không thể tách rời và phụ thuộc lẫn nhau trong một tổng thể hoàn chỉnh”, trong đó nhất thiết các đồng tác giả phải chủ ý cùng sáng tạo nên một tác phẩm chung.

Về thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả”

Thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” xuất hiện tại Điều 13 và một số điều khác của Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2019. Điều 36 định nghĩa: “Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20”.

Định nghĩa trên đây là chưa chính xác, bởi lẽ nội dung của quyền tác giả được quy định tại điều 18 bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, như vậy về mặt hình thức chủ sở hữu quyền tác giả phải nắm toàn bộ nội dung quyền tác giả (bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản). Nhưng như điều 36 định nghĩa thì

cho thấy chủ sở hữu quyền tác giả chỉ nắm quyền tài sản chứ không hề nắm quyền nhân thân.

Mặt khác, người nắm giữ toàn bộ quyền tài sản đối với tác phẩm thì có quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm như được quy định tại khoản 3 điều 19 của Luật.

Theo quan điểm cá nhân nên hoàn thiện vấn đề này theo hướng sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Sửa đổi thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” thành thuật ngữ “chủ sở hữu tác phẩm”; quy định thêm chủ sở hữu tác phẩm có quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.

Tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi pháp luật Việt Nam cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng:

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - 12

- Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với một số lĩnh vực quan trọng và phức tạo như quyền tác giả đối với chương trình máy tính, quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.

- Hội nhập quốc tế làm cho quan hệ các quốc gia xích lại gần nhau hơn về mọi lĩnh vực, trong đó có cả pháp luật. Trong tiến trình hội nhập đòi hỏi mỗi quốc gia phải hài hòa các vấn đề của quốc gia mình cho tương thích với những chuẩn mực chung đã được hầu hết các quốc gia khác thừa nhận. Chúng ta cần nội địa hóa một số quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết vào hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tác giả. Luật sở hữu trí tuệ về cơ bản đã quy định các quyền nhân thân và tài sản được bảo hộ của tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng phù hợp với các Điều ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, cần thiết phải nghiên cứu các quy định bổ sung một số quyền mang tính đặc thù đối với một số loại hình tác phẩm, phù hợp với thông lệ quốc tế như:

Về quyền bán lại đối với bản gốc tác phẩm mỹ thuật và những bản thảo gốc của nhà văn, nhà soạn nhạc (quy định tại điều 14ter Công ước Berne). Theo quy định của công ước Berne, với những bản gốc các tác phẩm mỹ thuật và những bản thảo gốc của nhà văn, nhà soạn nhạc mà tác giả đã chuyển nhượng thì tác giả hoặc

chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được hưởng một phần khoản tiền chênh lệch liên quan đến việc bán tác phẩm đó so với khi tác giả đã chuyển nhượng lần đầu.

Công ước Berne quy định rằng quyền bán lại chỉ được bảo hộ nếu như pháp luật của quốc gia thành viên mà tác giả là công dân thừa nhận sự bảo hộ đó và trong khuôn khổ quy định của pháp luật quốc gia thành viên nới sự bảo hộ được yêu cầu. Cũng theo Công ước Berne thì thể thức thu và mức lợi ích mà tác giả được hưởng sẽ do pháp luật của mỗi quốc gia thành viên quy định.

Hiện nay, pháp luật về quyền tác giả Việt Nam, cụ thể là Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa có quy định về việc tác giả được hưởng quyền này, do đó các tác giả Việt Nam cũng không được hưởng quyền này tại các quốc gia thành viên khác.

Về quyền đối với chương trình máy tính:

Điều 22 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2019 quy định chương trình máy tính, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy được bảo hộ như tác phẩm văn học là phù hợp với điều 10 của Hiệp định Trips và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do đây là loại hình tác phẩm được bảo hộ theo cơ chế đặc thù, nên luật pháp quốc gia cần bổ sung một số quy định riêng cho phù hợp.

Đối với người sử dụng hợp pháp chương trình máy tính, căn cứ theo nhu cầu sử dụng, có quyền sao thêm bản dự phòng để đề phòng bản sao bị hư hỏng. Tuy nhiên, bản dự phòng này không được giao cho người khác sử dụng bằng bất cứ phương thức nào, đồng thời khi người sử dụng mất quyền sở hữu bản sao hợp pháp đó thì phải có trách nhiệm tuy hủy bản sao dự phòng; đồng thời, người sử dụng hợp pháp chương trình máy tính cũng có quyền tiến hành những thay đổi cần thiết để ứng dụng chương trình máy tính vào hoàn cảnh thực tế hoặc cải tiến công dụng, tính năng chương trình máy tính nhưng không được giao chương trình máy tính sau khi đã thay đổi cho bên thứ ba nếu chưa được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép, trừ trường hợp hợp đồng có quy định khác.

Quy định về sản xuất đĩa quang:

Sao chép bất hợp pháp là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay. Việc sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và phân phối trong nước các đĩa quang để sao chép

bất hợp pháp các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là lý do khiến nền kinh tế APEC phải chịu các khoản lỗ lớn. Để đối phó với các hoạt động sản xuất đĩa quang lậu, thì biện pháp giám sát các hoạt động sản xuất đĩa quang theo luật định sẽ đơn giản và hiệu quả hơn các biện pháp dân sự và hình sự áp dụng đối với hành vi xâm phạm bản quyền. Trước yêu cầu đó, các nước thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã cam kết sẽ ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động sản xuất đĩa quang. Năm 2008, Cục bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng và đưa ra lấy ý kiến về dự thảo nghị định về sản xuất, xuất nhập khẩu và lưu hành đĩa quang; tuy nhiên đến nay Việt Nam vẫn chưa ban hành văn bản chính thức nào điều chỉnh hoạt động sản xuất đĩa quang. Trong thời gian tới, cần hoàn thiện và nhanh chóng ban hành các quy định để thống nhất điều chỉnh, quản lý hoạt động này.

Quy định về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ internet:

Với những thành tựu sáng tạo của công nghệ thông tin, trong môi trường kỹ thuật số, con người có thể dễ dàng tiếp cận, khai thác, sự dụng các nguồn thông tin, đồng nghĩa với việc vi phạm quyền tác giả cũng có thể xảy ra một cách dễ dàng và phổ biến. Ví dụ như, khó có thể đánh giá được việc sử dụng một cách hợp pháp hay không đối với các tác phẩm âm nhạc khi chứng xuất hiện trên những chiếc điện thoại di động, máy nghe nhạc hoặc trên các website cho phép nghe và tải nhạc. Thực tế cho thấy chỉ có một số ít các nhà cung ứng dịch vụ các thiết bị số chủ động và tự nguyện thiết lập các thỏa thuận về bản quyền với tác giả khi phổ biến tác phẩm của họ. Thực tiễn này đã đặt ra vấn đề trách nhiệm giới hạn pháp lý của các nhà cung cấp dịch vụ mạng.

Hiện nay vấn đề trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ tao ra mạng xã hội đang trở nên nổi cộm. Theo quan điểm cá nhân, dù các nhà cung cấp dịch vụ tạo ra sân chơi, các nội dung chia sẻ thông thường thuộc quyền sở hữu hợp pháp của thành viên thì các chủ trang web (hoặc người quản trị mạng) phải yêu cầu thành viên chứng minh quyền sở hữu đó. Dù là thông tin thành viên chia sẻ nhưng

chính các trang web tạo môi trường cho thông tin đó lưu thông, đó là hành vi phân phối bản ghi âm, ghi hình và chủ web phải liên đới chịu trách nhiệm.

Có thể thấy, trước bối cảnh mới với nhiều chuyển biến mạnh mẽ tác động đến mọi mặt của kinh tế - xã hội như quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam thông qua việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, làn sóng của cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng cũng như mục tiêu hướng tới một Chính phủ kiến tạo, việc sửa đổi Luật Sở hữu trong giai đoạn hiện nay trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là “hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả”.

Vừa qua, đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ đã chính thức được Quốc hội đồng ý đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 với dự kiến sẽ xem xét thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XV vào tháng 6-2022. Hiện nay, đề cương các điều khoản cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ đang bắt đầu được dự thảo và sẽ đăng tải, lấy ý kiến rộng rãi trong thời gian tới.

Nội dung sửa đổi Luật lần này cơ bản sẽ tập trung vào các nhóm chính sách lớn, bao gồm: Bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền; khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến tác phẩm, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký và xác lập quyền; bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng; tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả của hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng trình Thủ tướng đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ về nội dung quyền tác giả, quyền liên quan theo hướng xây dựng, ban hành Luật Bản quyền tác giả. Hy vọng trong thời gian tới, dự án này sẽ được Chính phủ và Quốc hội thông qua, để ban hành đạo luật riêng về quyền tác giả như hầu hết các nước trên thế giới.

b) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tác giả

Việc nâng cao nhận thức, tri thức và ý thức chấp hành các quy định pháp luật về quyền tác giả trong cộng đồng, đặc biệt là đối với các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan là chiếc chìa khóa để tăng cường hiểu biết, tôn trọng và thúc đẩy bảo hộ quyền tác giả. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật là một giải pháp quan trọng trong việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cao chúng ta cần có những hình thức và phương pháp thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể và từng giai đoạn cụ thể.

Trước tiên, cần nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của quyền tác giả, pháp luật quyền tác giả. Chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng đắn về vai trò của quyền tác giả và pháp luật quyền tác giả, chúng ta mới thực thi quyền tác giả đạt kết quả tốt. Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cũng khẳng định vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng là mấu chốt để nâng cao chất lượng của pháp luật quyền tác giả và hiệu quả thực thi. Đồng thời, cần nâng cao trình độ pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng của các cán bộ xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật quyền tác giả nói riêng.

Các hình thức tuyên truyền pháp luật cần đa dạng, phong phú và thích hợp với các đối tượng khác nhau. Tiếp tục tổ chức các hội thảo chuyên đề, các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về quyền tác giả cho các loại đối tượng khác nhau từ các nhà sáng tạo, các tổ chức, cá nhân sử dụng khai thác tác phẩm, người tiêu dùng, đến các đối tượng quản lý hành chính và tư pháp. Đối với công chúng nói chung, cần được trang bị kiến thức cơ bản về quyền tác giả, giáo dục về trách nhiệm phát hiện, tố cáo bất kỳ hành vi xâm phạm quyền tác giả để đảm bảo thực

thi pháp luật. Các hình thức tuyên truyền như thông tin trên báo chí về các vụ xâm phạm quyền tác giả và hình thức xử lý, bài giới thiệu, giải đáp pháp luật quyền tác già, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật quyền tác giả… Các hoạt động tuyên truyền pháp luật này cần tiến hành đều đặn, thường xuyên.

Cần nghiên cứu để sớm đưa môn học về quyền tác giả vào giảng dạy tại các trường đại học, phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đẩy nhanh tiến độ đưa và chương trình giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học để trang bị kiến thức về quyền tác giả cho học sinh, sinh viên. Các trường Đại học Luật, Khoa Luật của các trường đại học cần sớm hình thành khoa hoặc tổ bộ môn về sở hữu trí tuệ. Hệ thống các trường bồi dưỡng cán bộ của các bộ ngành, đặc biệt ngành văn hóa, thể thao và du lịch cần đưa vào chương trình bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả.

Phát động các chiến dịch với chủ đề “Nói không với vi phạm quyền tác giả” trong quần chúng nhân dân. Kinh nghiệm từ Thụy Sĩ cho thấy, Thụy Sỹ đưa việc giáo dục pháp luật vào các chương trình biểu diễn nghệ thuật, mời nghệ sĩ tham gia biểu diễn và tuyên truyền với học sinh, sinh viên về ý thức tôn trọng bản quyền. Nhật Bản tiến hành sản xuất các bộ phim tài liệu, phim hoạt hình nhằm tuyên truyền về ý thức tôn trọng bản quyền và trình chiếu tại các trường học, xuất bản các nội dung chuyện tranh có nội dung liên quan đến việc tôn trọng bản quyền và phát cho các học sinh tiểu học; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu trong học sinh, sinh viên về bản quyền… Đây là những cách làm hay mà chúng ta nên học tập.

Tận dụng tối đa lợi thế của phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản, báo chí trong hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật quyền tác giả. Tổ chức xuất bản sách báo và tài liệu liên quan nhằm trang bị công cụ cho bộ máy thực thi quyền tác giả, quyền liên quan.

Để công tác tuyền truyền, giáo dục pháp luật có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan, nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau, phải thực hiện công tác tổng kết, đánh giá kết quả, vận động thi đua, khen thưởng các cá nhân, tổ chức đạt thành tích cao trong công tác tuyên truyền pháp luật.

3.2.2. Giải pháp riêng đối với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

a) Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về quyền tác giả; xây dựng cơ chế phối hợp quản lý nhà nước về quyền tác giả

Hiện nay việc tổ chức thực thi pháp luật về quyền tác giả của các cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn chồng chéo, chưa có sự đồng bộ, thống nhất. Vì vậy, cần kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về quyền tác giả, bổ sung các quy định nhằm cải tiến lề lối, phương thức làm việc, tăng cường cơ chế phối hợp quản lý giữa các cơ quan quản lý và thực thi về quyền tác giả.

- Tăng cường tổ chức, bộ máy, cán bộ, công chức cho Cục bản quyền đủ khả năng giúp Nhà nước quản lý điều hành một số lĩnh vực mới mẻ và phức tạp về quyền tác giả. Thực hiện việc đào tạo chuyên gia quản lý quyền tác giả từ thực tiễn công tác, đồng thời cử đi đào tạo tại các cơ sở trong và ngoài nước. Đồng thời lựa chọn những cán bộ có khả năng phát triển đề đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia đầu ngành lâu dài.

- Tăng cường ngân sách và cơ sở vật chất kỹ thuật cho Cục bản quyền tác giả để nâng cấp hệ thống điện tử hóa toàn bộ hoạt động quản lý, điều hành, lưu giữ tài liệu; tổ chức đăng ký quyền tác giả trên mạng. Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số là một vấn đề mới và phức tạp, vì vậy cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả cần phải thành lập một bộ phận xử lý các vấn đề về quyền tác giả trong môi trường số với một đội ngũ cán bộ được đào tạo, am hiểu về công nghệ thông tin.

- Tại các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần thiết phải có ít nhất một biên chế quản lý chuyên trách về quyền tác giả để tham mưu cho lãnh đạo Sở, cũng như theo dõi xử lý các vấn đề quyền tác giả phát sinh trên địa phương. Đối với các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cần có một bộ phận độc lập trực thuộc lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

- Quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo hướng giảm bớt đấu mối và tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo; quy định rõ ràng thẩm quyền của từng cơ quan và phạm vi cũng như cách thức phối

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 11/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí