Tiểu kết Chương 2
Quyền tác giả là lĩnh vực phức tạp và tương đối mới mẻ đối với Viêt Nam. Trải qua hơn 15 năm thi hành Luật sở hữu trí tuệ 2005 về quyền tác giả, quyền liên quan, chúng ta đã đạt được những kết quả đáng tự hào. Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả, quyền liên quan đã tiến gần tới chuẩn mực quốc tế, đặt nền móng pháp lý cho việc thiết lập cơ chế bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và bộ máy vận hành cơ chế đó. Các quy định pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan; về cơ bản, đã đi vào cuộc sống, đóng vai trò tích cực, thúc đẩy sáng tạo văn học, nghệ thuật và khoa học, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng thụ hưởng. Các quyền cơ bản gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan được tôn trọng, từ quyền đứng tên, đặt tên tác phẩm do mình sáng tạo, quyền công bố, quyền cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm, bảo vệ toàn vẹn tác phẩm, đến quyền được hưởng nhuận bút, thù lao và các lợi ích vật chất do việc cho phép sử dụng tác phẩm để biểu diễn, xuất bản, phát thanh, truyền hình, trưng bày, triển lãm, dựng phim, xây dựng chương trình sân khấu...
Hệ thống cơ quan quản lý và thực thi pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đã được hình thành với tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa phương.
Hoạt động thanh, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần đưa pháp luật quyền tác giả, quyền liên quan vào đời sống, khuyến khích hoạt động sáng tạo và sử dụng thành quả sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan đã được tăng cường, triển khai đến các đối tượng có liên quan. Giới khai thác, sử dụng và công chúng đã có nhận thức và bước đầu thể hiện sự tôn trọng bản quyền trong các hoạt động khai thác, sử dụng, phổ biến tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình và chương trình phát sóng thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thỏa thuận và trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan ở hầu hết hình thức sử dụng từ báo chí, xuất bản, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, tạo hình, kiến trúc, đến phát thanh, truyền hình, sản xuất bản ghi âm - hình.
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, vẫn còn tồn tại những hạn chế bất cập nhất định: từ vấn đề nhận thức chung của cộng động về bảo hộ quyền tác giả còn hạn chế, chưa hình thành ý thức tôn trọng quyền tác giả. Bản thân các chủ thể quyền có quyền và người sử dụng đối tượng thuộc quyền của người khác chưa có hiểu biết về pháp luật quyền tác giả hoặc ý thức tuân thủ còn kém; các chủ thể quyền chưa chủ động thực hiện bảo vệ quyền và tài sản của mình, mà còn mang nặng tâm lý trông chờ, ý lại vào Nhà nước.
Bộ máy thực thi bảo hộ quyền tác giả chưa được hoàn thiện và tăng cường đủ sức đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Hệ thống cơ quan quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm nhiều cơ quan từ Trung ương đến địa phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả thực thi còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn thiếu và kiêm nhiệm nhiều công việc. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch không có biên chế quản lý quyền tác giả, quyền liên quan, đa số bố trí cán bộ kiêm nhiệm dẫn đến mức độ chuyên sâu của nhân lực quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn hạn chế.
Hệ thống tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mới được hình thành, hoạt động còn thiếu chuyên nghiệp, thiếu quy phạm điều chỉnh, thiếu nhân lực, vật lực, cơ sở vật chất.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Hiện Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Nhà Nước, Tổ Chức, Cá Nhân Trong Lĩnh Vực Bảo Hộ Quyền Tác Giả
- Quản Lý Hoạt Động Giám Định Về Quyền Tác Giả; Hoạt Động Đại Diện, Tư Vấn, Dịch Vụ Quyền Tác Giả
- Trong Hoạt Động Quản Lý Tập Thể Quyền Tác Giả
- Giải Pháp Riêng Đối Với Bộ Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - 13
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - 14
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Vì vậy, việc kiến nghị đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hộ và thực thi quyền tác giả trong thời gian tới là vô cùng cần thiết.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
3.1. Quan điểm vềquản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Qua nghiên cứu về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, nghiên cứu những chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, có thể thấy quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam phải quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây:
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả phải được thực hiện đúng đắn, có hiệu lực, hiệu quả bảo đảm phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng lãnh đạo là một nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả phải đảm bảo tuân thủ, nhất quán với các chủ trương, đường lối của Đảng.
Mục tiêu, phương hướng thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền tác giả trong thời gian tới là: Phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những tồn tại, thúc đẩy hoạt động thực thi, từng bước hoàn thiện bộ máy, cơ chế, pháp luật và hội nhập quốc tế nhằm: “làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và “thực hiện chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết trung ương 5 Khóa VIII đã xác định “tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ ngày càng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị trong nước và ngoài nước”, “Chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho văn nghệ sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả”[24].
Trong hoạt động sáng tạo, mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là “phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật”[25, tr106], “bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa”[24]. Tại Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước khuyến khích các hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới, thông qua các chính sách hỗ trợ phát triển, công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”[25, tr.100]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, quan điểm của Đảng là “tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá”.
Để thực hiện những mục tiêu nói trên, Đảng và Nhà nước chủ trương hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế thị trường, nhưng vẫn phải bảo vệ được lợi ích dân tộc, độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, giao lưu hội nhập với các nền văn hóa thế giới, tạo điều kiện cho nhân dân hưởng thụ ngày càng nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại cũng như giới thiệu các giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân Việt Nam ra thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu trọng tâm của Chiến lược phát triển văn hóa cần phải đạt được đó là “phát huy cao tính sáng tạo của trí thức, văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hóa, nghệ thuật; tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại”.
Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa đòi hỏi tăng nguồn đầu tư thích đáng cho khu vực sáng tạo văn hóa, nghệ thuật [24]. Thực hiện chính sách hỗ trợ, bảo trợ, và đặt hàng cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Tăng cường bảo hộ và thực thi quyền tác giả; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của cán bộ quản lý nhà nước
về quyền tác giả, từ đó tạo hành lang, môi trường pháp lý an toàn cho các chủ thể tự do sáng tạo.
3.1.2. Quan điểm khoa học
Quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sở hữu công nghiệp và kinh tế tri thức. Hiện nay trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập với thế giới và khu vực, nhà nước đóng vai trò là định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế, đảm bảo thống nhất các lợi ích cơ bản trong xã hội. Khoa học pháp lý, cụ thể là lý luận chung về nhà nước và pháp luật chứng minh rằng: bất kỳ chính sách nào của nhà nước, chỉ có thể thực hiện và phát huy đầy đủ, có hiệu quả nhất khi được xác lập dưới một hình thức pháp luật nhất định. Sở dĩ như vậy, vì tính tổ chức và điều chỉnh phổ biến của pháp luật là công cụ đảm bảo hữu hiệu cho sự quản lý của nhà nước trên phạm vi toàn xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế, hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ nói ngày càng phát triển sôi động, diễn biến phức tạp, cần phải tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật để ngăn chặn những hoạt động lệch lạc, những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, lợi ích của nhà nước, của quốc gia, dân tộc.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả vừa liên quan đến những lý luận cơ bản của khoa học pháp lý, vừa là lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành. Vì thế nghiên cứu vấn đề tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả không chỉ có ý nghĩa về nhận thức mà còn có ý nghĩa phương pháp luận giúp đánh giá chính xác thực trạng, đề xuất và luận chứng được với tính thuyết phục của các giải pháp tăng cường lĩnh vực quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực này.
Để bảo vệ lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nói riêng, chủ sở hữu tài sản trí tuệ nói chung, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, khách hàng, cũng như công chúng thưởng thức, và toàn xã hội, quản lý nhà nước bằng pháp
luật về quyền tác giả phải là công cụ pháp lý năng động, nhanh nhạy, đảm bảo tính an toàn cao về mặt pháp lý, tạo hành lang an toàn, môi trường đầu tư thuận lợi để phát triển hoạt động sáng tạo, phát triển kinh tế trí thức. Hơn thế nữa, việc tạo hành lang pháp lý riêng cho hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đòi hỏi Nhà nước, các Bộ, ngành quản lý phải điều chỉnh, kiểm soát, điều tiết một cách hợp lý, công bằng mối quan hệ giữa nhà đầu tư, tác giả, chủ sở hữu tài sản trí tuệ, công chúng…làm cho thương mại tài sản trí tuệ ngày một phát triển, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các chủ thể, cũng như lợi ích của quốc gia, tạo lập môi trường cho giao lưu kinh tế, thương mại quốc tế.
Tuy nhiên nhận thức về tầm quan trọng, thực trạng, nội dung, quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực này chưa đầy đủ, thiếu nhất quán, còn bị chi phối bới lợi ích cục bộ của từng Bộ, ngành, địa phương. Chính vì vậy, cần thống nhất nhận thức, nâng cao quyết tâm chính trị trong tổ chức thực hiện, quản lý nhà nước về quyền tác giả nhằm tạo được sự chuyển biến theo kịp yêu cầu quản lý đối với lĩnh vực quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay.
Đối với Việt Nam, việc xây dựng và duy trì một hệ thống bảo hộ quyền tác giả hữu hiệu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập WTO buộc chúng ta phải đạt được hai chuẩn mực lớn về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và hiệu lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) của hệ thống luật sở hữu trí tuệ hiện hành. Như vậy, bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan vừa xuất phát từ nhu cầu tự thân của nền kinh tế - xã hội nước ta trong quá trình phát triển, vừa là một yêu cầu bắt buộc khi tham gia các quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập.
Trước sức ép của hội nhập, trong điều kiện phát triển các mối quan hệ hợp tác đa phương, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo môi trường hợp tác đa phương có hiệu quả. Trong xu hướng đó, pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam không thể tách rời với pháp luật về quyền tác giả của quốc tế, Việt Nam phải có chiến lược xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật của mình
sao cho cơ chế đó phù hợp với những điều kiện trong nước, đồng thời thích ứng với xu hướng hợp tác và hội nhập tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới và trong khu vực.
3.2. Giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
3.2.1. Giải pháp chung
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng để bảo hộ quyền tác giả ở bất kỳ quốc gia nào đều cần đến sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật. Vì vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là nhu cầu tất yếu, khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia trên thế giới cũng như đối với nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, để tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:
a) Hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp luật xã hội chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Vì vậy, yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong lĩnh vực quyền tác giả là hết sức cần thiết.
Pháp luật về quyền tác giả phải thể hiện sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo với các chủ thể sử dụng và công chúng hưởng thụ, có như vậy nó mới có khả năng đi vào đời sống để phát huy hiệu quả trong thực tế. Pháp luật về quyền tác giả không những bảo đảm đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập, khắc phục được các bất cập hiện đang tồn tại, làm cho hệ thống quy phạm pháp luật về quyền tác giả của nước ta tiến gần hơn với hệ thống của nhiều nước trên thế giới, mà còn là một công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, phát triển thị trường công nghệ, từ đó nâng cao hiệu lực của pháp luật, hiệu quả quản lý, thực thi, góp phần phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.
Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Đạo luật này đã thay đổi toàn bộ cấu trúc của hệ thống các văn bản pháp luật trước đây về sở hữu trí tuệ, chuyển từ hệ thống các văn bản pháp luật đơn hành thành một đạo luật chuyên ngành thống nhất, đồng bộ, làm nền tảng pháp lý cơ bản để điều chỉnh các vấn đề có liên quan việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Do đây là một đạo luật được ra đời trong bối cảnh kế thừa và khắc phục các hạn chế của các luật đơn lẻ trước đó, đồng thời tiếp thu những tiến bộ cũng như đáp ứng các yêu cầu khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho nên về cơ bản, nội dung của Luật sở hữu trí tuệ đã bảo đảm tiêu chuẩn về tính đầy đủ và hiệu quả. Trong đó có phần quyền tác giả, quyền liên quan, đây là những quy định có tính chất cơ bản điều chỉnh các quan hệ về quyền tác giả, quyền liên quan; góp phần quan trọng khuyến khích công dân tự do sáng tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học; thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan ở Việt Nam đạt được những tiến bộ mới; tạo tiền đề pháp lý cho việc đàm phán ký kết và thi hành các Điều ước quốc tế đa phương và song phương về lĩnh vực này. Tuy nhiên, cần làm rõ một số thuật ngữ, khái niệm sau đây:
Về thuật ngữ “đồng tác giả”
Luật sở hữu trí tuệ không định nghĩa thuật ngữ “đồng tác giả” mà mặc nhiên quan niệm trong trường hợp có từ hai tác giả trở lên cùng sáng tạo lên một tác phẩm thì họ là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Quan niệm này chỉ điều chỉnh được mối quan hệ về quyền tài sản đối với tác phẩm giữa các đồng tác giả đối với các trường hợp sau: tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung duy nhất; hoặc tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung theo phần, trường hợp này được điều chỉnh bởi Điều 38 của Luật: các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm, nếu có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.