- Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối)
Theo lý thuyết về lợi thế so sánh nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong việc sản xuất tất cả sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tạo ra lợi ích khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, nước đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất, tức là chúng có lợi thế tương đối và nhập khẩu các sản phẩm mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất, tức là sản phẩm không có lợi thế tương đối.
Lý thuyết thương mại quốc tế đã chỉ rò: “Bất kỳ hai quốc gia nào tận dụng những lợi thế của mỗi nước đều đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia và cho xã hội nói
chung. Và sự phát triển thương mại “hoàn toàn tự do” (theo cơ chế thị trường, không có sự can thiệp của nhà nước) sẽ đem lại lợi ích tối đa cho xã hội”. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tùy theo mục tiêu kinh tế, chính trị ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định đều có những chính sách khuyến khích hoặc hạn chế trao đổi mậu dịch đối với một số mặt hàng nào đó. Các công cụ chính sách để thực hiện các mục tiêu này là “trợ cấp xuất hoặc nhập khẩu”; “hạn ngạch – quota”; “thuế quan – tariff”;
“hạn chế xuất khẩu tự nguyện – VER”;…
1.1.1.4. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
Có thể bạn quan tâm!
- Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thực trạng và giải pháp - 1
- Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thực trạng và giải pháp - 2
- Cơ Cấu Tự Nhiên- Kinh Tế- Xã Hội Của Nhật Bản
- Nhận Xét Chung Về Lợi Thế So Sánh Phát Triển Quan Hệ Thương Mại Việt Nam
- Những Thành Tựu Chủ Yếu Của Việt Nam Trong Quan Hệ Thương Mại Việt Nam – Nhật Bản
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
- Thuế quan
Thuế quan được hiểu là loại thuế chính phủ đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh. Trong đó, thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, nên người mua trong nước phải trả cho những hàng hóa nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc thu được. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu. Các nước đang phát
triển thường sử dụng thuế xuất khẩu như một công cụ để tăng lợi ích quốc gia.
- Hạn ngạch
Hạn ngạch là qui định số lượng hoặc giá trị xuất nhập khẩu đối với từng hàng hóa, từng thị trường. Hạn ngạch xuất khẩu là hạn chế số lượng xuất khẩu theo từng mặt hàng, theo từng quốc gia, thị trường và theo thời gian. Hạn ngạch nhập khẩu là hạn chế số lượng nhập khẩu nên cũng ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa và lợi ích xã hội..
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraint – VER) được hiểu là một loại hạn ngạch được thực hiện một cách “tự nguyện” bởi nước xuất khẩu đối với hàng xuất khẩu của mình sang các nước khác nhằm tránh các biện pháp trả đũa do nước nhập khẩu đưa ra.
- Những quy định về điều kiện kỹ thuật
Một quốc gia có thể hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu bằng cách đưa ra những quy định về điều kiện kỹ thuật. Đây là những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa nhằm bảo vệ sức khỏe, sự an toàn của con người, các loài động thực vật và môi trường, về bao bì của hàng hóa nhập khẩu, …
- Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp tiền trực tiếp hay cho vay với lãi suất thấp đối với doanh nghiệp xuất khẩu trong nước hoặc cho các bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để họ có thể mua hàng hóa do nước mình xuất khẩu nhằm khuyến khích xuất khẩu quốc gia.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến quan hệ thương mại song phương Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một đặc trưng của sự phát triển trên thế giới. Tất cả các quốc gia, dù ở trình độ phát triển
nào cũng không thể ở ngoài xu thế khách quan này, bởi mỗi nước muốn phát triển kinh tế, muốn bảo toàn các lợi ích của mình đều phải tham gia vào xu thế chung của thời đại. Thực tiễn lịch sử cũng cho thấy, không một quốc gia nào có thể phát triển với một nền kinh tế khép kín. Hội nhập kinh tế quốc tế càng cao thì các nền kinh tế càng phụ thuộc nhau, sự liên kết trong thương mại, sản xuất… càng diễn ra sâu rộng. Điều này dẫn đến sự hình thành của hàng loạt các thể chế kinh tế, định chế kinh tế, liên kết kinh tế khu vực, liên kết quốc tế… có ảnh hưởng và sức mạnh chi phối toàn cầu, điển hình như: Tổ chức thương mại thế giới GATT (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), …
Xu hướng khu vực hóa được đẩy mạnh
Một xu hướng kinh tế lớn trong nền kinh tế thế giới từ sau chiến tranh thế giới, đó là sự trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ sự hợp tác và liên kết kinh tế khu vực. Khái niệm khu vực hóa về mặt kinh tế đại thể được hiểu là một nhóm nước liên hợp với nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, các bên tự nguyện hạn chế một phần quyền lợi kinh tế của mình, thậm chí nhượng bộ một phần chủ quyền theo nguyên tắc đối đẳng, xây dựng cơ cấu chấp hành tương ứng theo quy định nghiêm ngặt, cùng nhau quy định điều kiện lưu thông tự do của các yếu tố sản xuất hoặc toàn bộ yếu tố sản xuất, khiến cho các nước thành viên có thể thực hiện được sự bổ sung kinh tế cho nhau, để đạt được mục đích cùng phồn vinh.
Khu vực hóa về kinh tế có thể được thực hiện qua các tổ chức có tính khu vực . Căn cứ vào các mức độ liên kết khác nhau, người ta có thể chia các tổ chức kinh tế khu vuực thành 6 loại bao gồm : khu thuế quan ưu đãi, khu mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, khu vực hoá toàn
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, quá trình khu vực hóa diễn ra đặc biệt mạnh mẽ trong thời đại ngày nay. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều tổ chức kinh tế khu vực, điển hình có thể kể ra như: Khu mâụ dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA); Liên minh Châu Âu(EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á( ASEAN)….
Vì lợi ích lâu dài của mỗi nước, các quốc gia phát triển đã tích cực sớm tham gia và cổ vũ cho làn sóng hội nhập kinh tế quốc tế này từ nửa đầu những năm 90. Về sau, các quốc gia kém phát triển hơn đã nhận thức được xu thế này cũng đã tích cực hội nhập theo các cấp độ khác nhau (đơn phương, song phương, đa phương) nhằm tận dụng cơ hội để phát triển. Sự tham gia mạnh mẽ của các nước đã khiến khối lượng và tốc độ tăng trưởng của thương mại thế giới tăng cao. Chỉ trong vòng 50 năm cuối của thế kỷ XX, tổng khối lượng thương mại thế giới đã tăng lên 17 lần. Trong 1 thập kỷ, từ 1987 đến 1997, tỷ trọng của thương mại trong GDP thế giới đã tăng thêm 9%, đạt 29,6%. Kim ngạch xuất khẩu chiếm 1/2 tổng sản phẩm thế giới. Tỷ trọng thương mại trong mỗi nước cũng được bổ sung do xu hướng tăng cường chu chuyển thương mại nội bộ trong các công ty xuyên quốc gia. Thương mại thế giới dự kiến sẽ tăng 2,5% trong năm 2013 và 4,5% trong năm 2014 giảm so với ước tính trước đó (3,3% và 5%), theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
1.2. Các nhân tố tác động tới mối quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
1.2.1. Cơ cấu Tự nhiên - Kinh tế- Xã hội của Việt Nam
1.2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc, phía Tây giáp với Lào, Campuchia, phía Đông và Nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới đất liền dài 4.510 km, đường bờ biển dài 3.260 km, và có ba mặt Đông, Nam, Tây Nam trông ra biển. Đây là điều kiện địa lý thuận lợi giúp Việt Nam trở thành đầu mối giao thông quan trọng từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Mặc dù thuộc vùng nhiệt đới nhưng Việt Nam lại có hai vùng khí hậu gắn với hai vùng địa hình khác nhau. Với một nền nhiệt độ cao, lượng mưa nhiều đã tạo ra một hệ thực vật phong phú với trên 800 loài cây gỗ (đinh, lim, sến, táu…), quần thể động vật đa dạng lên tới 200 loài thú, 100 loài lưỡng cư, trên 150 loài bò sát, 1.000 loài lưỡng biển và 200 loài nước ngọt.
Việt Nam là một trong những quốc gia có biển và nguồn nước mặn phong phú nên nguồn lợi thủy sản dồi dào, gồm thủy sản nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Việt Nam có tới 6.845 loại động vật biển, với nhiều loại đặc sản và quý hiếm như: tôm, mực, cá voi, cá heo. Biển Việt Nam còn có tiềm năng khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu. Với khoảng 1,2 triệu ha mặt nước, trên 600 ngàn ha sông suối, trên 300 ngàn ha hồ chứa… phân bố đều ở các vùng, Việt Nam còn có tiềm năng phát triển và khai thác thủy sản nước lợ, nước ngọt.
Ngoài những tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, Việt Nam còn có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng như: than (trữ lượng khoảng trên 6 tỉ tấn), dầu khí (trữ lượng dầu mỏ khoảng 3 – 4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50 – 70 mét khối), kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc…), kim loại đen (sắt, măng gan, titan)… Hiện nay, Việt Nam chỉ mới khai thác và chế biến khoáng sản ở mức độ thấp, các khoáng sản xuất khẩu chỉ ở dạng sơ chế, dầu chỉ là dầu thô. Đây là điều kiện thuận lợi trước mắt giúp phát huy hiệu quả kinh tế cao mà cần ít vốn đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có các mỏ nhỏ rải rác trên cả nước, rất thuận tiện cho việc khai thác và phát triển kinh tế giữa các vùng.
Hàng nghìn con sông lớn, nhỏ trải dài theo lãnh thổ, cứ khoảng 20 km lại có một cửa sông nên hệ thống giao thông đường thủy của Việt Nam khá thuận lợi. Ngoài ra, cùng với nhiều hải cảng lớn: Hải Phòng, Nghi Sơn, Đà Nẵng, Cam Ranh, Vũng Tàu… Việt Nam dễ dàng phát triển kinh tế, giao thương trong nước và ngoài nước
1.2.1.2. Dân cư và nguồn lực
Tính đến tháng 11 năm 2013, dân số của Việt Nam là trên 92 triệu người, đứng thứ 2 tại Đông Nam Á và đứng thứ 14 trên thế giới. Dân số Việt Nam được đánh giá là có quy mô lớn và phát triển nhanh với tốc độ tăng dân số ở mức 1 triệu người/năm.
Nguồn nhân lực của Việt Nam đông đảo, có trình độ văn hóa tương đối đồng đều. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, cần cù, sáng tạo và ham học hỏi. Giá nhân công Việt Nam thấp hơn so với một số nước trong khu vực. Hơn nữa,
nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng được hoàn thiện hơn về trình độ chuyên môn, tinh thần chấp hành kỷ luật và văn hóa ứng xử trong công việc.
1.2.1.3. Thị trường tiềm năng
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế lớn đứng thứ ba trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Trung Quốc). Trước đây Nhật Bản luôn giành vị trí thứ hai về kinh tế và mới chỉ bị Trung Quốc vượt qua từ đầu năm 2011. Để giữ vững vị trí cường quốc kinh tế hiện nay, Nhật Bản luôn cần một thị trường tiềm năng có thể đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của mình về nguyên vật liệu, lương thực phẩm phục vụ cho cuộc sống và cho sự phát triển. Việt Nam là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên trên mặt đất cũng như dưới nước, đất đai màu mỡ rất phù hợp để phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp để xuất khẩu nông sản và thủy sản. Những mỏ kim loại quý, dầu và khí đốt… cũng được phát hiện và khai thác ngày càng tăng. Việt Nam lại án ngữ các con đường giao thông trong khu vực Tây Thái Bình Dương nên rất thuận lợi mở rộng kinh tế đối ngoại, thương mại mậu dịch…
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên các tiềm năng đó chỉ mới khai thác bước đầu, nên có thể cung ứng phần nào cho Nhật Bản. Mặt khác, Việt Nam cũng cần nhập khẩu từ Nhật Bản nhiều thiết bị máy móc hiện đại, nguyên vật liệu cần thiết để phát triển kinh tế trong nước. Theo Tổng cục
Thống kê dự tính: Năm 2024, dân số Việt Nam sẽ vượt qua con số 100 triệu người, đạt 100,5 triệu người. Mật độ dân số lúc đó đạt 335 người/km2, tăng hơn nhiều so với 258 người/km2 hiện tại. Dân số đông, trẻ thì nhu cầu tiêu dùng cao, là một điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hóa và phát triển kinh tế của Nhật Bản. Bởi vậy, có tới 338 công ty Nhật Bản trên tổng số 652 công ty xếp Việt Nam đứng vào hàng thứ 4 trong các đối tác quan trọng nhất mà họ sẽ đầu tư trong 10 năm đầu thế kỷ XXI. Điều này thể hiện sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam – một đất nước đóng vai trò quan trọng về kinh tế và chính trị ở khu vực Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản.
1.2.1.4. Chính sách đối ngoại mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Sự hội nhập ngày càng sâu của Việt Nam vào khu vực và quốc tế (gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do các nước Đông Nam Á (AFTA), Tổ chức thương mại thế giới(WTO)…) khiến quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển. Nếu năm 1986 Việt Nam có quan hệ xuất nhập khẩu với 43 quốc gia, năm 1995 là 100 quốc gia, năm 2000 là 192 quốc gia thì hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bình quân từ năm 1986 đến năm 2005 là 20,7 tỷ USD/1 năm (gấp 7 lần so với năm 1985). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm tăng 30%. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 2,4 tỷ USD thì năm 2003 con số này là 20,176 tỷ USD, tăng 39% so với kim ngạch xuất khẩu năm 2000. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, gấp 8 lần so với năm 1990. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt 32,4 tỷ USD, tăng gần 40 lần so với năm 1986. Số liệu thống kê mới
nhất của Tổng cuc Haỉ quan cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu , nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 12 năm 2012 (từ 16/12 đến 31/12) đạt 10,65 tỷ USD, tăng 13,1% so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 12/2012.
Với kết quả đạt được trong nửa cuối tháng 12/2012 đã đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước năm 2012 lên gần 228,37 tỷ USD , tăng 12,1% so với
kết quả thưc
hiên
của năm 2011.
Tính đến hết kỳ 2 tháng 12/2012, cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam thặng dư 780 triệu USD.
Tính đến hết tháng 11 tháng năm 2008 Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản: 7,896 tỷ USD; nhập khẩu từ Nhật Bản: 7,611 tỷ USD (nguồn: Bộ Công thương Việt
Nam). Năm 2011 và 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản lần lượt là 10,8 tỷ và 13,0 tỷ USD.
13
10.8
8.5
7.7
6.1
6.3
4.56
14
12
10
Kim ngạch xuất khẩu ( Tỷ USD)
8
6
4
2
0
2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Đồ thị 1.1: Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản 2005 – 2012
(Nguồn : Thống kê Hải Quan – Tổng Cục Hải Quan Việt Nam )
Tốc độ tăng bình quân của kim ngạch nhập khẩu trong 20 năm đổi mới (1986
– 2005) là 16,1%. Năm 1986, kim ngạch nhập khẩu là 2,155 tỷ USD thì năm 2005 là 37 tỷ USD, tăng gấp 16 lần. Tính đến hết tháng 11 tháng năm 2008 Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản: 7,611 tỷ USD, năm 2011 kim ngạch nhập khẩu là 10.40 tỷ và 11 tháng đầu năm 2012 là 10,6 tỷ USD (nguồn: Bộ Công thương Việt Nam)
12.00
10.40
7.80
8.30
7.47
6.07
3.60
12.00
10.00
8.00
Kim ngạch nhập khẩu (Tỷ USD)
6.00
4.00
2.00
0.00
2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Đồ thị 1.2: Biểu đồ kim ngạch nhập khẩu Việt Nam từ Nhật Bản 2005- 2012
( Nguồn: Thống kê Hải Quan – Tổng Cục Hải Quan Việt Nam )