Đặc Điểm Quan Hệ Lợi Ích Trong Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ

36


trong một lĩnh vực nhất định; được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên nhằm thực hiện mục tiêu lợi ích nhất định theo nhu cầu của từng chủ thể.

Vì vậy, nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ như sau: Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ là sự gắn bó, ràng buộc về lợi ích giữa các chủ thể trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ nhằm khai thác tối đa lợi ích từ hoạt động sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Theo đó, khái niệm quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC thể hiện:

Một là, quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ là sự gắn bó, ràng buộc, tác động qua lại về lợi ích giữa các chủ thể trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ gồm: chủ thể trực tiếp sản xuất nông nghiệp hữu cơ (hộ nông dân, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp); các chủ thể cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ (doanh nghiệp cung ứng con giống, phân bón..., ngân hàng, nhà khoa học); các chủ thể tham gia chế biến, bảo quản các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; các chủ thể trung gian tiêu thụ sản phẩm nông sản hữu cơ; người tiêu dùng là người trực tiếp sử dụng sản phẩm NNHC để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng; nhà nước là cơ quan quản lý thực hiện việc ban hành cơ chế, chính sách tạo lập môi trường cho phát triển nông nghiệp hữu cơ. Trong đó, các chủ thể có vị thế, đặc điểm hoạt động khác nhau sẽ tạo ra lợi ích và được hưởng lợi ích khác nhau. Đôi khi điều này dẫn đến vi phạm lợi ích, cần kịp thời can thiệp xử lý đồng thời giải quyết các tranh cấp về lợi ích giữa các chủ thể trong hoạt động sản xuất và tiêu dùng NNHC để các chủ thể yên tâm sản xuất kinh doanh.

Hai là, phản ánh các quan hệ lợi ích cơ bản trong phát triển NNHC gồm: Quan hệ lợi ích về kinh tế - xã hội của các chủ thể; Quan hệ lợi ích về sức khỏe cộng đồng; Quan hệ lợi ích về môi trường; Quan hệ lợi ích về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng và chuyển giao công nghệ.

37


Ba là, hài hòa lợi ích cho các chủ thể để khai thác tối đa lợi ích từ phát triển NNHC. Trong đó việc hài hòa hài hòa lợi ích giữa các chủ thể giữ vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia sản xuất và phát huy tối đa khả năng của mình để đóng góp vào chuỗi giá trị nông nghiệp hữu cơ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Như vậy, thực chất quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC chính là hài hòa về lợi ích giữa các chủ thể tương ứng với vị trí, vai trò của từng chủ thể trong các khâu sản xuất NNHC.

2.1.2. Đặc điểm quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố Hà Nội - 6

Thứ nhất, đối tượng phát sinh quan hệ lợi ích là các sản phẩm gắn với sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Trong nông nghiệp, có nhiều loại sản phẩm khác nhau, được sản xuất với quy trình và yêu cầu khác nhau như: sản phẩm nông nghiệp truyền thống (không bị ràng buộc bởi các quy định sản xuất cụ thể nào, cũng như không bị kiểm soát quy trình kỹ thuật), sản phẩm nông nghiệp sản xuất theo tiêu chuẩn nhất định (có những ràng buộc nhất định về quy trình canh tác, chăn nuôi) và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Các mỗi quan hệ lợi ích ở đây chỉ được nghiên cứu trong sự liên quan đến các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Với trình độ hiểu biết, mức sống dân cư ngày càng được nâng cao, mối quan tâm cũng như nhu cầu về hàng nông sản hữu cơ cũng ngày càng tăng lên. Do đó, các mối quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ cũng ngày càng gia tăng theo cả chiều sâu và chiều rộng.

Thứ hai, phạm vi ảnh hưởng của quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ khá rộng, liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ thể tham gia vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ để tìm kiếm lợi ích kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực: lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hữu cơ (hộ nông dân, chủ trang trại, doanh nghiệp kinh doanh trong nông nghiệp); lĩnh vực công nghiệp (doanh nghiệp chế biến, bảo quản nông sản); lĩnh vực dịch vụ (tín dụng, chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học, thu gom và phân phối

38


sản phẩm nông nghiệp…). Do đó, các quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ không chỉ ở một không gian bó hẹp mà là một mối liên kết rộng, có thể không chỉ là trong phạm vi một địa phương, một vùng, một quốc gia mà còn mở rộng phạm vi ra quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay.

Thứ ba, mỗi chủ thể trong từng khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ (đầu vào - sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng) đều là mắt xích cần thiết trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là xuất phát điểm, là mắt xích đầu tiên để quan hệ lợi ích diễn ra nên đặc biệt quan trọng, tuy trình độ tổ chức còn nhiều hạn chế. Mặc dù theo lý thuyết, chủ thể nắm vai trò chủ động và tốt nhất nên là chủ thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, trên thực tế, chủ thể trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nông sản hữu cơ là chủ thể chịu nhiều rủi ro nhất. Vì trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chủ thể sản xuất chịu ảnh hưởng nhiều của những điều kiện khách quan như thiên tai, dịch bệnh, mặt khác, còn phải tuân thủ những quy trình sản xuất nghiêm ngặt như: Ecocert, USDA, Natureland, PGS,... Điều đó dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao, trong khi giá bán sản phẩm phụ thuộc vào nhu cầu thị trường và bị chi phối bởi nhiều yếu tố bên ngoài (tâm lý, niềm tin người tiêu dùng vào sản phẩm hữu cơ...). Ngoài ra, nông nghiệp là lĩnh vực có tính thời vụ cao nên khi nông sản tới vụ thu hoạch nếu không bán được sẽ gây thất thoát và thiệt hại lớn, trong khi chủ thể sản xuất phần lớn không có các điều kiện cần thiết để bảo quản nông sản nên thường bị chủ thể thu mua sản phẩm chèn ép về giá bán nông sản. Vì vậy, lợi ích của chủ thể sản xuất chịu nhiều rủi ro hơn các chủ thể khác trong mối quan hệ lợi ích này. Với đặc điểm trên, có thể thấy có sự chênh lệch nhất định giữa các chủ thể và vai trò của từng chủ thể trong quan hệ lợi ích. Chế biến, tiêu thụ là các khâu tiếp theo tạo nên giá trị gia tăng cho hàng nông sản hữu cơ, thậm chí tạo ra mức chênh lệch

39


lớn hơn rất nhiều so với giá trị ban đầu. Vì vậy, sự chi phối của chủ thể chế biến, tiêu thụ trong chuỗi giá trị hàng nông sản là rất lớn.

Thứ tư, quan hệ lợi ích giữa các chủ thể không thể tránh khỏi tình trạng bất cân xứng. Lý do chính là sự đa dạng của các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ về mức độ và thực thi sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ, thể hiện ở trình độ của các chủ thể, sự chênh lệch về quy mô và tiềm lực kinh tế giữa các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ, có thể kể ra là sự chênh lệch giữa chủ thể sản xuất chủ yếu là nông dân sản xuất nhỏ và hạn chế về nguồn lực tài chính với chủ thể là doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ với quy mô lớn,...

Thứ năm, trong điều kiện sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn chưa phổ biến, hệ thống thể chế chưa đồng bộ, đầy đủ và đủ mạnh thì tính bền vững của quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ thấp hơn các lĩnh vực khác. Có nhiều nguyên nhân khác nhau từ phía các chủ thể tham gia chuỗi giá trị nông nghiệp hữu cơ dẫn tới tính bền vững của quan hệ lợi ích trong phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ thấp, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do một số chủ thể thường đơn phương phá vỡ cam kết vì lợi ích cá nhân bị ảnh hưởng do sản xuất nông nghiệp hữu cơ chịu nhiều rủi ro. Bên cạnh đó là các cam kết còn lỏng lẻo, chế tài xử lý các vi phạm cam kết khó thực hiện và ý thức thực hiện các cam kết trong sản xuất nông nghiệp của các chủ thể còn thấp đặc biệt là chủ thể sản xuất và chủ thể thu mua sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

Thứ sáu, các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ (bao gồm: nhà sản xuất, nhà chế biến, tiêu thụ, nhà tư vấn, nhà khoa học và các thành phần khác) đều có thể tham gia giám sát các khâu quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ để đảm bảo lợi ích của mình được thực hiện minh bạch và đúng đắn.

40


Như vậy, quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ là một kiểu quan hệ đặc thù và cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Đó chính là song hành giữa sự thống nhất và đấu tranh nhau về mặt lợi ích giữa các chủ thể; sự đan xen giữa quy mô lớn với quy mô; số ít doanh nghiệp với số đông nông dân; kỳ vọng ổn định với những biến động rủi ro của thời tiết, thiên tai và thị trường.

2.1.3. Vai trò của quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Một là, quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ là cơ sở, điều kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các chủ thể tham gia nói riêng và nền nông nghiệp hữu cơ nói chung.

Suy cho cùng, tất cả các mối quan hệ, các hoạt động hợp tác, liên kết giữa các chủ thể trong nông nghiệp hữu cơ đều xuất phát từ lợi ích. Lợi ích chính là sự phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp hữu cơ và là biểu hiện sống động nhất của các mối quan hệ. Đối với những mối quan hệ này, chủ thể nắm tư liệu sản xuất, nắm quyền điều hành, quyền kiểm soát quá trình sản xuất, đặc biệt là nắm quyền phân phối hàng nông sản hữu cơ chính là chủ thể có vai trò chủ đạo, quyết định nhất trong các mối quan hệ lợi ích. Do đó, lợi ích và sự phân chia lợi ích của các nhóm chủ thể khác nhau là khác nhau. Hiểu một cách đơn giản thì phân chia lợi ích công bằng, hài hòa thì sẽ là điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh nông nghiệp hữu cơ phát triển. Ngược lại, phân chia lợi ích giữa các chủ thể thiên vị, nhiều mâu thuẫn thì sẽ phá vỡ mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, cắt đứt một hay nhiều mắt xích trong chuỗi sản xuất kinh doanh nông nghiệp hữu cơ. Từ đó, kéo lùi sự phát triển nông nghiệp hữu cơ, thậm chí làm phá sản việc xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ. Vì thế, hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ là một trong những nhân tố thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững mô hình NNHC. Hơn nữa, nó sẽ là cơ sở nền tảng góp phần tạo nên sự bền vững các liên kết kinh tế mà các chủ thể tham gia. Sự hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong phát triển nông

41


nghiệp hữu cơ không chỉ thúc đẩy bản thân các quan hệ lợi ích của các chủ thể, mà hơn thế còn là cơ sở để hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sản xuất NNHC.

Hai là, tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển bền vững.

Suy cho cùng, mọi hoạt động thực tiễn của con người đều hướng tới mục tiêu thỏa mãn những lợi ích nhất định. Vì vậy, chỉ khi hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể mới tạo ra động lực để thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là quá trình sản xuất tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn và được giám sát chặt chẽ bởi nhiều chủ thể có lợi ích gắn với chuỗi sản xuất này. Từ quá trình sản xuất từ các dịch vụ đầu vào như: cung ứng cây, con giống cho sản xuất; công nghệ gen; kỹ thuật canh tác; sử dụng các loại máy móc thiết bị, vật tư nông nghiệp,... đều được thực hiện theo hướng tiết kiệm tài nguyên, giảm tiêu hao năng lượng đầu vào, loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng phân hóa học, thuốc từ sâu có nguồn gốc vô cơ, thay thế chúng bằng các loại phân bón, thuốc trừ sâu có nguồn gốc hữu cơ để giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm người tiêu dùng được sử dụng nông sản an toàn có lợi cho sức khỏe.

Do đó, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ thể sẽ tạo ra động lực thúc đẩy các chủ thể mở rộng sản xuất theo hướng sản xuất tập trung quy mô lớn, gắn sản xuất với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Việc mở rộng quy mô sản xuất một mặt cho phép ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm từ đó nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hữu cơ trên thị trường. Mặt khác, sản xuất tập trung quy mô lớn sẽ tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn thúc đẩy các ngành công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hữu cơ phát triển, thực hiện cơ cấu lại hệ thống tiêu thụ sản phẩm theo hướng liên kết chặt chẽ từ sản xuất - thu gom - chế biến - tiêu thụ giữa doanh nghiệp với nông dân; phát triển các nhóm nông dân hợp tác tự nguyện, liên kết sản xuất theo

42


chuỗi giá trị. Ngoài ra, việc phát triển chuỗi sản xuất nông nghiệp hữu cơ khép kín từ sản xuất tới tiêu dùng trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng về điều kiện tự nhiên để sản xuất ra các sản phẩm có tính đặc hữu sẽ đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của người tiêu dùng. Từ đó góp phần mang lại thu nhập ổn định cho người nông dân, giúp người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn những sản phẩm an toàn cho sức khỏe.

Ba là, tạo sự gắn kết bền vững giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp hữu cơ.

Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể phát triển nông nghiệp hữu cơ trở thành yếu tố gắn kết Nhà nước và doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân với nhau, đảm bảo cho các chủ thể này đạt được lợi ích đặt ra. Khi lợi ích giữa các chủ thể được đảm bảo, hài hòa thì quan hệ liên kết kinh tế giữa các chủ thể này được củng cố và thắt chặt. Ngược lại, khi lợi ích không được thực hiện một cách công bằng, bị xâm phạm thì sớm hay muộn quan hệ lợi ích giữa các chủ thể đều có thể bị đổ vỡ, chấm dứt khiến mối liên kết trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ trở nên lỏng lẻo, thiếu bền vững. Một trong những nguyên nhân được nhiều nhà kinh tế chỉ ra là do các chủ thể tham gia vào liên kết chạy theo lợi ích trước mắt của cá nhân nên không tuân thủ các cam kết đã được ký kết (Ví dụ: trong mối liên kết giữa hộ sản xuất với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm đầu ra. Khi nông sản có giá cao hộ nông dân tìm cách phá vỡ hợp đồng bán cho thương lái với giá cao hơn để tìm kiếm lợi ích kinh tế. Ngược lại cũng nhiều trường hợp khi giá thấp hơn so với cam kết giá mua trong hợp đồng thì doanh nghiệp chấp nhận mất phần vốn đã tạm đặt cọc cho hộ nông dân để phá vỡ hợp đồng không tiếp tục mua nông sản cho nông dân để tránh tổn thất về tài chính). Những hiện tượng phá bỏ cam kết trong hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp rất khó đưa ra xử lý vì những lý do như: do quy mô của sản xuất nhỏ nên giá trị hợp đồng ít, trong trường hợp khởi kiện thành công thì phần giá trị bồi thường không đáng kể;

43


thủ tục khiếu kiện rất phức tạp, tốn thời gian của doanh nghiệp; ngoài ra doanh nghiệp ngại khi tham gia khiếu kiện sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới hình ảnh và thương hiệu...

Để hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ có nhiều cách mà các nước trên thế giới đã thực hiện rất thành công như: (i) trong hợp đồng cho phép các chủ thể được điều chỉnh giá nông sản hữu cơ trong một biên độ giới hạn (thường biên độ này do các chủ thể khi ký kết hợp đồng đã thỏa thuận trước và không trái với quy định của pháp luật). Việc cho phép điều chỉnh biên độ giá sẽ không làm cho thiệt hại dồn hết về một phía dẫn tới đơn phương phá vỡ hợp đồng, đây là nguyên tắc chia sẻ lợi ích giữa các chủ thể để đảm bảo tính gắn kết; (ii) thông qua các biện pháp quản lý hành chính, chính quyền và các cơ quan chức năng có thể thực hiện không cấp giấy chứng nhận xuất xứ sản phẩm hữu cơ đối với các chủ thể vi phạm cam kết trong các hợp đồng kinh tế lặp lại nhiều lần... Hài hòa quan hệ lợi ích giữa cá chủ thể có vai trò quan trọng trong việc tạo lập niềm tin, từ đó tạo sự gắn kết giữa các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Bốn là, tạo khâu đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, ngoài rào cản về thuế quan, nhiều quốc gia, khu vực có nền kinh tế phát triển như: Mỹ, Nhật Bản, EU … đều áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm soát dư lượng chất kháng sinh trong nông sản, thực phẩm với tiêu chuẩn rất cao. Với quy trình sản xuất được quản lý nghiêm ngặt trong từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất dưới sự giám sát của nhiều bên, sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ đưa ra thị trường những sản phẩm đảm bảo an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng, đồng thời đáp ứng được các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái, không gây tổn hại tới môi trường. Đây là phương thức

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí