52
xuất với lợi ích của từng tập thể, cá nhân được hưởng. Các tổ chức, cá nhân được hưởng vừa đủ hay quá mức lợi ích họ được hưởng một cách chính đáng.
2.2.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự tác động của quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ
Đánh giá quan hệ lợi ích giữa các chủ thể cần dựa trên sự phát triển của sản xuất nông nghiệp hữu cơ vì khi quan hệ lợi ích giữa các chủ thể được đảm bảo hài hòa hay nói cách khác là các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ hài lòng với lợi ích mà mình đạt được sẽ tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển.
Thứ nhất, hiệu quả kinh tế: tốc độ mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hữu cơ (xét về diện tích các vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ) sản lượng gia tăng của sản xuất nông nghiệp hữu cơ; năng suất của sản xuất nông nghiệp hữu cơ; mức độ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ và xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Thứ hai, hiệu quả xã hội: Góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của các chủ thể tham gia NNHC; Giải quyết việc làm, nâng cao sự hiểu biết của người lao động; Cải thiện môi trường và điều kiện làm việc của người lao động.
Thứ ba, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững thích ứng tốt với biến đổi khí hậu: sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế các sản phẩm có nguồn gốc vô cơ trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ; góp phần bảo vệ và tái tạo nguồn tài nguyên đất, nước, đa dạng sinh học,...; góp phần ngăn chặn ô nhiễm, khôi phục và cải tạo chất lượng môi trường, giảm phát thải nhà kính; góp phần bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và điều kiện làm việc của người lao động và môi trường sống của con người.
Tóm lại, việc đánh giá quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ cần kết hợp giữa các phương pháp định tính và định lượng nhằm đưa ra những kết luận chân thực và khách quan nhất với thực tiễn để đề xuất giải
53
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Kết Quả Nghiên Cứu Đã Công Bố Có Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án Và Khoảng Trống Nghiên Cứu
- Đặc Điểm Quan Hệ Lợi Ích Trong Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ
- Nội Dung, Tiêu Chí Đánh Giá Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quan Hệ Lợi Ích Trong Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ
- Kinh Nghiệm Thực Tiễn Về Hài Hõa Quan Hệ Lợi Ích Trong Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Và Bài Học Cho Thành Phố Hà Nội
- Khái Quát Chung Về Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Ở Thành Phố Hà Nội
- Tình Hình Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội (Từ Phát Triển Các Yếu Tố Đầu Vào, Sản Xuất Nông Nghiệp Hữu Cơ Và Chế
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
pháp hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ
Các quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trước hết chịu chi phối bởi sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ. Chỉ khi nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ mới có thể đem lại lợi ích cho các chủ thể tham gia chuỗi giá trị này. Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ sẽ bao gồm các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp hữu cơ và có tác động đến quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Cụ thể:
2.2.3.1. Nhu cầu của xã hội về sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và các điều kiện công nghệ để phát triển nông nghiệp hữu cơ
Thứ nhất, nhu cầu của xã hội về sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là nhân tố có tác động mạnh mẽ đến phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ và gián tiếp tác động đến lợi ích của các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Thực tế cho thấy trong tất cả các lĩnh vực sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp hữu cơ nói riêng, khi nhu cầu thị trường về sản phẩm lớn hơn khả năng cung ứng sản phẩm (cầu lớn hơn cung) sẽ dẫn tới giá cả của sản phẩm đó có xu hướng tăng lên, lợi nhuận của nhà sản xuất cũng vì thế tăng theo và tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với sản xuất nông nghiệp hữu cơ, mục đích của các chủ thể là tìm kiếm lợi ích kinh tế cho bản thân mình thông qua các hoạt động sản xuất. Quá trình sản xuất (sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?) do các chủ thể sản xuất quyết định. Nhưng việc sản phẩm của quá trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ có bán được hay không lại phụ thuộc vào hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng hay nói cách khác là nhu cầu của xã hội về sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Chỉ khi người tiêu dùng chấp nhận bỏ tiền mua sản phẩm thì kết quả sản xuất của các chủ thể trong
54
chuỗi sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới được thừa nhận và lợi ích kinh tế của các chủ thể này mới được thực hiện.
Như vậy, nhu cầu của thị trường (bao gồm thị trường trong nước và quốc tế) về sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là nhân tố có tác động trực tiếp quyết định tới sự phát triển của sản xuất nông nghiệp hữu cơ và từ đó gián tiếp tác động tới lợi ích của từng chủ thể trong chuỗi sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học công nghệ (đặc biệt là công nghệ sinh học) có vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ và gián tiếp tác động tới lợi ích của các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Khoa học công nghệ nói chung, công nghệ sinh học nói riêng có những tác động mạnh mẽ tới sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Việc ứng dụng những mô hình nhà lưới, nhà màng, nhà kính hay công nghệ tưới nhỏ giọt, công nghệ thủy canh, khí canh và công nghệ sinh học cho phép loại bỏ các chất hóa học khỏi quy trình sản xuất nông nghiệp, đó cũng chính là yêu cầu bắt buộc đối với sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Khoa học công nghệ còn quyết định tới việc nâng cao năng suất, chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp từ đó tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp hữu cơ và lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động này. Thực tế cho thấy, các hoạt động nghiên cứu và chuyển
giao các tiến bộ khoa học và công nghệ cho sản xuất nông nghiệp nói chung vàsản xuất nông nghiệp hữu cơ nói riêng đã có những tác động to lớn tới năng suấtnhiều loại cây trồng, vật nuôi, giúp cho cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu
để nâng cao sản lượng tại các vùng sản xuất bị nhiễm mặn như đồng bằng sôngCửu Long hay tại các vùng hạn hán, có lượng mưa trung bình hàng năm thấp
hơn so với các địa phương trong cả nước như Ninh Thuận, Bình Thuận và cáctỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên… từ đó đem lại lợi ích to lớn cho cácchủ thể tham gia sản xuất trong đó có sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
55
2.2.3.2. Nhận thức của các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ
Nhận thức của các chủ thể tham gia phát triển NNHC có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến tính hiệu quả của quan hệ lợi ích giữa chủ thể. Điều tiên quyết các chủ thể cần nhận thức chính là phát triển NNHC là con đường đúng đắn nhưng không dễ dàng. Vì vậy, hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, mang về những giá trị tăng thêm và những khoản lợi nhuận là mục đích chung của các chủ thể. Về lâu về dài, đây là cuộc chơi mà tất cả các chủ thể tham gia đều có lợi. Khi các chủ thể có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về phát triển NNHC thì công tác tổ chức sản xuất, quy trình kỹ thuật, chia sẻ rủi ro khi thiên tai, mất mùa, dịch bệnh giữa các bên liên quan đều tìm được sự đồng thuận. Từ đó, các hợp đồng ký kết có tính lâu dài, các chủ thể tạo lập được uy tín, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất được chú trọng, năng lực quản lý sản xuất sản phẩm được nâng cao và do đó, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản hữu cơ trên thị trường. Như thế, quan hệ lợi ích giữa các chủ thể cũng ngày càng được gắn kết.
2.2.3.3. Năng lực của các chủ thể sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ
Năng lực của các chủ thể sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ là nhân tố then chốt giữ vai trò quyết định tới sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ và nâng cao lợi ích của chủ thể. Đồng thời góp phần đảm bảo lợi ích của các chủ thể khác trong chuỗi giá trị nông nghiệp hữu cơ. Năng lực của chủ thể sản xuất, kinh doanh thể hiện thông qua các yếu tố sau:
Một là, năng lực tổ chức sản xuất và quản lý, khai thác hiệu quả các nguồn lực phục vụ sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Năng lực tổ chức sản xuất và quản lý, khai thác hiệu quả các nguồn lực phục vụ sản xuất giữ vai trò quyết định tới kết quả của mọi quá trình sản xuất nói chung, trong đó có sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Việc chủ thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ thực hiện tốt
56
quá trình tổ chức sản xuất sẽ đảm bảo cho các giai đoạn của quá trình sản xuất ăn khớp với nhau trong vòng tuần hoàn của vốn và đây là điều kiện để quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục không bị ngắt quãng gây lãng phí thời gian sản xuất, tồn đọng vốn trong các khâu của quá trình sản xuất từ đó làm giảm tốc độ chu chuyển vốn và giảm lợi nhuận của quá trình sản xuất. Ngoài ra, việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực như: tài nguyên, sức lao động, khoa học công nghệ và các yếu tố đầu vào cho sản xuất sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao lợi nhuận và gia tăng năng lực cạnh tranh cho nông sản hữu cơ trên thị trường.
Hai là, năng lực tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là sự kết hợp giữa những kỹ thuật của phương pháp canh tác truyền thống với ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là việc tuân thủ các quy trình của sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, nếu các chủ thể sản xuất có năng lực tốt trong việc tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt vào sản xuất là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được bộ tiêu chí đánh giá sản phẩm nông nghiệp hữu cơ PGS của Việt Nam và thế giới, từ đó đảm bảo cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được người tiêu dùng đón nhận và có khả năng thâm nhập, cạnh tranh với các sản phẩm nông nghiệp khác trong hệ thống phân phối bán lẻ không chỉ ở thị trường trong nước mà còn trên phạm vi toàn cầu.
Ba là, năng lực tiếp cận nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ngoài việc tổ chức sản xuất, tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chủ thể sản xuất còn phải có năng lực tốt trong việc tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư (vay vốn sản xuất, đặc biệt là việc thu hút các nhà đầu tư vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ). Việc tiếp cận tốt các nguồn vốn đầu tư sẽ tạo tiền đề cho các chủ thể sản xuất có tiềm lực tài chính mạnh mẽ
57
để mở rộng sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời với việc thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ tạo điều kiện để các chủ thể sản xuất tiếp cận với kinh nghiệm tổ chức quản lý khoa học của các nước tiên tiến trên thế giới.
Bốn là, năng lực tiếp cận thị trường, quảng bá sản phẩm để tìm nhà phân phối hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Cùng với quá trình tổ chức sản xuất, việc chủ động tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ có vị trí đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công đều có năng lực tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm rất tốt. Vì vậy, chủ thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ cần phải xây dựng được chiến lược của mình trong việc tiếp cận thị trường, đưa sản phẩm hữu cơ đến với người tiêu dùng và tìm được nhà phân phối có uy tín, có tiềm lực tài chính tốt để liên kết trong khâu phân phối sản phẩm hữu cơ trên thị trường.
Như vậy, năng lực của các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ đến đâu sẽ được đo bằng lợi ích mà các chủ thể nhận được đến đó. Các chủ thể có năng lực tốt sẽ kiểm soát được quá trình sản xuất, kinh doanh và có lợi hơn trong các cuộc đàm phán lợi ích với các đối tác. Ngược lại, các chủ thể có năng lực trung bình hoặc yếu sẽ phải chịu thiệt thòi, thậm chí phải chấp nhận những điều khoản bất lợi hơn trong thương thảo với đối tác. Do đó, năng lực của các chủ thể sẽ quyết định đến sự cân bằng hay bất cân xứng trong quan hệ lợi ích.
2.2.3.4. Truyền thống, tập quán sản xuất nông nghiệp của các chủ thể
Truyền thống, tập quán sản xuất là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và nông nghiệp hữu cơ nói riêng. Do ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán sản xuất gắn liền với đời sống
58
của các chủ thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ nên vừa rất dễ để phát huy những mặt tích cực, lại vừa rất khó để loại bỏ những tập quán sản xuất lạc hậu. Để thay đổi truyền thống, tập quán canh tác lạc hậu cần có sự tư vấn, giám sát chặt chẽ của các nhà tư vấn, nhà nước và người tiêu dùng. Đồng thời kết hợp với chuyển giao khoa học công nghệ tiến bộ vào sản xuất để từng bước thay đổi nhận thức và hành động của các chủ thể sản xuất. Từ đó loại bỏ dần các thói quen xấu trong sản xuất, hướng tới áp dụng các quy trình sản xuất tiến bộ, thân thiện với môi trường và đáp ứng các quy định về tiêu chuẩn của các tổ chức trong nước và quốc tế. Thay đổi được thói quen, phong tục tập quán lạc hậu sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động và đảm bảo lợi ích kinh tế trước hết cho chính chủ thể sản xuất, sau đó là lợi ích của các chủ thể khác trong chuỗi sản xuất nông nghiệp hữu cơ và toàn xã hội. Từ đó hạn chế những xung đột lợi ích xảy ra giữa nhóm chủ thể có phương pháp sản xuất hiện đại và nhóm chủ thể sản xuất theo hướng chủ thể.
2.2.3.5. Trình độ phát triển của hệ thống thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Cũng như các loại hình sản xuất vật chất khác, sản xuất nông nghiệp hữu cơ cần có sự phát triển đồng bộ của thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như: thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường sức lao động và thị trường đầu ra cho sản phẩm hữu cơ. Việc phát triển đồng bộ thị trường các yếu tố đầu vào cho sản xuất sẽ cung cấp đầy đủ về chủng loại, số lượng, chất lượng các loại cây giống, con giống và các loại vật tư nông nghiệp với giá thành cạnh tranh. Đây là những điều kiện cần thiết cho quá trình mở rộng sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Bên cạnh đó, việc phát triển tốt thị trường tiêu thụ sản phẩm sẽ góp phần đưa sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tới tay người tiêu dùng với thời gian ngắn nhất giúp nông sản hữu cơ giữ được nguyên sự tươi sống để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Cùng với việc hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, hoạt động xúc tiến
59
thương mại, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ có vai trò quan trọng trong việc đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dùng. Thực tế cho thấy, việc quảng bá giới thiệu sản phẩm sẽ giúp cho người tiêu dùng nhận diện đầy đủ thông tin về sản phẩm để đưa ra quyết định tiêu dùng, đồng thời việc cung cấp thông tin còn giúp người tiêu dùng tiếp cận và giám sát quá trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ để từ đó tạo lập lòng tin, xây dựng thói quen cho người tiêu dùng về các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
2.2.3.6. Mức độ hoàn thiện, phù hợp của thể chế, chính sách của nhà nước cho phát triển nông nghiệp hữu cơ
Có thể nói cơ chế, chính sách của nhà nước và công tác quản lý của chính quyền các cấp có tác động vô cùng mạnh mẽ tới sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ nói riêng. Hệ thống các văn bản quy định của nhà nước là cơ sở pháp lý để một mặt thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển, một mặt giải quyết quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp hữu cơ đối với sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp, trong những năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ như: Nghị định số 109/2018/NĐ-CP, ngày 29 tháng 8 năm 2018 về nông nghiệp hữu cơ. Nghị định đã làm rõ các khái niệm “nông nghiệp hữu cơ”; Để triển khai thực hiện Nghị định 109/2018/NĐ-CP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 16/2019/TT- BNNPTNT, ngày 01 tháng 11 năm 2019 về quy định chi tiết một số điều của nghị định số 109/2018/NĐ-CP của chính phủ về nông nghiệp hữu cơ. Các văn bản trên đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Cùng với việc ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của chính quyền các cấp mà