Khái Quát Kết Quả Nghiên Cứu Đã Công Bố Có Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án Và Khoảng Trống Nghiên Cứu

28


Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (2017), Kỷ yếu diễn đàn quốc gia: Phát triển Nông nghiệp hữu cơ lần thứ nhất, Chủ đề: Giải pháp phát triển Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam [17]. Cuốn kỷ yếu đã vẽ ra một bức tranh tổng quan về nền nông nghiệp hữu cơ thế giới Việt Nam. Trong đó, có đề cập đến những lợi ích tương quan khi phát triển diện tích sản xuất NNHC với doanh thu; đề cập đến nhu cầu và niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng nông sản hữu cơ. Bên cạnh đó, cuốn kỷ yếu cũng chỉ ra nút thắt trong sản xuất NNHC ở Việt Nam chính là quy mô diện tích và chưa có hành lang pháp lý chính thức cho NNHC phát triển, cần nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp hữu cơ.

Trần Hoàng Hiểu (2019), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long [18]. Tác giả đã bàn đến những vấn đề chung về lợi ích và quan hệ lợi ích nói chung, phân tích quan hệ lợi ích về kinh tế ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ đó, tác giả đưa ra một giải pháp giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp tương đối tốt là nâng cao hiệu quả kinh tế cho các bên tham gia liên kết trong cánh đồng lớn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Trương Đình Chiến, Doãn Hoàng Minh, Nguyễn Đình Toàn,…(2020), Hội thảo Khoa học quốc gia về thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn thành phố Hà Nội [3]. Cuốn kỷ yếu bàn đến những hạn chế của thành phố Hà Nội trong phát triển NNHC. Trong đó, tập trung phân tích những hạn chế của doanh nghiệp và hộ nông dân và những khó khăn trong chính sách phát triển. Qua đó, bàn đến mối quan hệ lợi ích ba nhà: nhà nông - nhà doanh nghiệp và nhà nước và nhấn mạnh cần phải có sự liên kết giữa ba nhà để thúc đẩy NNHC phát triển.

1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU

29


1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài luận án

Một là, các công trình nghiên cứu về cơ bản đã xây dựng được hệ thống khái niệm, phạm trù như: lợi ích kinh tế, vai trò của lợi ích kinh tế đối với sản xuất, tính khách quan của lợi ích kinh tế; nông nghiệp hữu cơ, vai trò, đặc điểm, nội dung của nông nghiệp hữu cơ đối với nước ta trong điều kiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững đáp ứng những yêu cầu mới của biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Hai là, nhiều công trình nghiên cứu đã đi sâu đánh giá thực trạng của sản xuất NNHC để từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên phạm vi của một tỉnh, thành phố hoặc phạm vi cả nước. Đồng thời các nghiên cứu cũng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của hệ thống cơ chế chính sách đối với giải quyết các quan hệ lợi ích nói chung và quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ nói riêng.

Ba là, một số công trình nghiên cứu đã khái quát các mô hình phát triển nông nghiệp hữu cơ của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến như Israel, Nhật Bản, Mỹ, châu Âu và các địa phương trong phạm vi cả nước đã có những kết quả tích cực trong phát triển nông nghiệp hữu cơ để từ đó chỉ ra những thành công, thất bại và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng.

Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố Hà Nội - 5

Bốn là, các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài phần lớn là các báo cáo đánh giá về thực hiện các chương trình phát triển nông nghiệp hữu cơ của các tổ chức như UNEP, OECD... ở các khu vực châu Phi, châu Á và một số nước trên thế giới. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác dựa trên các mô hình tăng trưởng kinh tế và các lý thuyết kinh tế hiện đại để đánh giá về một nền kinh tế cụ thể của một quốc gia trong phát triển nông nghiệp

30


theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Từ đó đưa ra các khuyến nghị về cơ chế, chính sách của chính phủ cho phát triển nông nghiệp Xanh, nông nghiệp hữu cơ. Đây là những khuyến nghị có giá trị thực tiễn cao có thể tham khảo cho việc phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Như vậy, qua các nghiên cứu cho thấy, vấn đề quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ để hướng tới phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững thích ứng tốt với biến đổi khí hậu và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là khoảng trống chưa được nghiên cứu luận giải cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, chưa có công trình nghiên cứu nào về quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì vậy, đề tài: “Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn thành phố Hà Nội” mà nghiên cứu sinh lựa chọn là hoàn toàn và không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố cả trong nước và quốc tế.

1.3.2. Những khoảng trống nghiên cứu đặt ra

Từ những vấn đề đã được nghiên cứu, luận giải thì việc nghiên cứu về quan hệ lợi ích trong sản xuất NNHC góp phần lấp đầy một số “khoảng trống” mà các công trình nghiên cứu trước đó chưa đề đến hoặc đề cập đến chưa thật cụ thể và có hệ thống. Cụ thể như sau:

- Luận giải rõ hơn sự cần thiết của vấn đề quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC trên địa bàn thành phố Hà Nội

- Làm rõ hơn các vấn đề lý luận về quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC trên địa bàn thành phố Hà Nội như: khái niệm về quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ; đặc điểm của quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ; vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn của địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

31


- Làm rõ hơn những bài học kinh nghiệm của các địa phương trong và ngoài nước có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đồng với thành phố Hà Nội trong việc giải quyết các quan hệ lợi ích cho phát triển nông nghiệp hữu cơ mà thành phố Hà Nội có thể học tập.

- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2020, chỉ ra được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

- Dự báo về xu hướng vận động và những cơ hội, thách thức về phát triển NNHC thời gian tới. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp và kiến nghị đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC trên địa bàn Thành phố Hà Nội đến năm 2030.

32


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ


2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÕ CỦA QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ

2.1.1. Một số khái niệm cơ bản

2.1.1.1. Khái niệm nông nghiệp hữu cơ và phát triển nông nghiệp hữu cơ

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về NNHC.

Theo nghĩa chung nhất, NNHC là hệ thống sản xuất dựa vào các quá trình sinh thái, như tái chế chất thải, phân hữu cơ (như phân chuồng, phân xanh) và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc tự nhiên, sử dụng các loài thiên địch (các loài động vật săn mồi) thay cho các đầu vào tổng hợp như phân hóa học và thuốc trừ sâu...

Tác giả Phạm S quan niệm:

Nông nghiệp hữu cơ là quá trình sản xuất tuân thủ tuyệt đối an toàn sinh học; không sử dụng hóa chất trong suốt quá trình sản xuất; không sử dụng giống biến đổi gen; quá trình canh tác có thể sử dụng kỹ thuật truyền thống đến kỹ thuật hiện đại; môi trường sinh thái bền vững nhằm đảm bảo sự công bằng của các bên tham gia; thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế [36, tr.255].

Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm Codex của FAO/WHO (2012) đưa ra khái niệm:

Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống quản lý sản xuất toàn diện nhằm thúc đẩy và tăng cường gìn giữ sự bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm đa dạng sinh học, chu trình sinh học và hoạt động sinh học của đất. Nó nhấn mạnh việc sử dụng các thực tiễn quản lý thay vì sử dụng các đầu vào phi nông nghiệp, có tính đến

33


các điều kiện của địa phương. Điều này được thực hiện bằng cách sử dụng, nếu có thể, các phương pháp nông học, sinh học và cơ học, ngược lại với việc sử dụng các yếu tố đầu vào tổng hợp, để hoàn thành bất kỳ chức năng cụ thể nào trong hệ thống [70].

Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (International Federation of Organic Agriculture Movements - IFOAM) cho rằng:

Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất để duy trì sức khỏe của đất, hệ sinh thái và con người. Nó dựa vào quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và chu kỳ thích nghi với điều kiện địa phương chứ không phải sử dụng các yếu tố đầu vào với các hiệu ứng bất lợi. NNHC kết hợp truyền thống, sự đổi mới và khoa học để có lợi cho môi trường và thúc đẩy mối quan hệ công bằng và một cuộc sống chất lượng cho tất cả các bên tham gia [69].

Tại Điều 3, Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018 về nông nghiệp hữu cơ, đưa ra khái niệm:

Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống sản xuất bảo vệ tài nguyên đất, hệ sinh thái và sức khỏe con người, dựa vào các chu trình sinh thái, đa dạng sinh học thích ứng với điều kiện tự nhiên, không sử dụng các yếu tố gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái; là sự kết hợp kỹ thuật truyền thống và tiến bộ khoa học để làm lợi cho môi trường chung, tạo mối quan hệ công bằng và cuộc sống cân bằng cho mọi đối tượng trong hệ sinh thái [4].

Từ những khái niệm của các tổ chức trong nước và quốc tế, có thể rút ra nội hàm của khái niệm nông nghiệp hữu cơ là:

Một là, nông nghiệp hữu cơ là một mô hình sản xuất hướng tới mục tiêu sản xuất nông nghiệp gắn với bảo vệ các nguồn tài nguyên đất, nước, hệ sinh thái (động vật, thực vật) và bảo vệ sức khỏe con người.

34


Hai là, việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ dựa vào các chu trình sinh thái và đa dạng sinh học thích ứng với điều kiện tự nhiên (khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn nước) không sử dụng các yếu tố gây tác động tiêu cực tới môi trường.

Ba là, sản xuất nông nghiệp hữu cơ dựa trên sự kết hợp giữa kỹ thuật canh tác truyền thống với công nghệ sản xuất hiện đại để tạo ra các sản phẩm.

Bốn là, sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ tạo ra sự cân bằng cho mọi đối tượng trong hệ sinh thái có điều kiện phát triển.

Từ nội hàm các khái niệm đã nêu trên, nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm phát triển nông nghiệp hữu cơ như sau: Phát triển nông nghiệp hữu cơ là quá trình thay đổi cả về lượng và chất trong sản xuất nông nghiệp nhằm tận dụng tối đa các chu kỳ sinh thái, đa dạng sinh học thích ứng với điều kiện tự nhiên của cây trồng, vật nuôi, không sử dụng hóa chất và giống biến đổi gen cũng như các yếu tố tác động tiêu cực tới môi trường để đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia và bảo vệ môi trường sinh thái.

2.1.1.2. Khái niệm quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

* Khái niệm lợi ích

Lợi ích là một phạm trù được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới trong các công trình nghiên cứu, có nhiều loại lợi ích khác nhau như: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa... có thể chỉ ra một số quan niệm của các nhà nghiên cứu về lợi ích như sau:

Theo A.S.Aizikovich: “Lợi ích là nhu cầu được thúc đẩy bởi xã hội” [62, tr.176];

Claire Kremen, Albie Miles cho rằng: “Lợi ích là sự phản ánh chủ quan của những nhu cầu tồn tại khách quan” [67, tr.93];

Tác giả Đoàn Xuân Thủy cho rằng: “lợi ích là sự ngầm định khách quan một chủ thể nào đó nhận một hay nhiều giá trị có hạn nào đó trong một cộng đồng người để thỏa mãn các ước muốn của mình trong những điều kiện xã hội nhất định” [46, tr.38].

35


Từ các khái niệm nêu trên, nghiên cứu sinh cho rằng: Lợi ích là một phạm trù kinh tế khách quan, được sinh ra từ nhu cầu và phản ánh phần giá trị thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, được quy định bởi các quan hệ kinh tế nhất định và hiện thực hóa bằng vị trí, vai trò và các quyền của các chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất.

Theo quan niệm này thì:

- Lợi ích là phạm trù khách quan, là hình thức biểu hiện của các quan hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định; là động lực thúc đẩy hoạt động lao động sáng tạo của con người.

- Lợi ích là phần giá trị nhằm thỏa mãn nhu cầu thông qua hoạt động gắn kết, hợp tác với các chủ thể khác.

- Lợi ích là quyền được sử dụng các nguồn lực hợp pháp để tạo ra của cải vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Chủ thể nắm tư liệu sản xuất sẽ có thể chi phối được lợi ích của các chủ thể khác.

- Lợi ích mang tính lịch sử. Vì vậy, đối với mỗi thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu kinh tế của con người luôn biến đổi theo hướng tăng số lượng nhu cầu và đòi hỏi chất lượng nhu cầu phải cao hơn. Điều này tác động làm cho lợi ích cũng dần thay đổi để phù hợp với sự biến đổi của các nhu cầu kinh tế.

Như vậy, lợi ích chính là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất. Các chủ thể sản xuất kinh doanh cũng là các chủ thể của những lợi ích khác nhau. Mọi lợi ích khác như lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa đều chịu sự chi phối của lợi ích kinh tế và phản ánh từng khía cạnh khác nhau của lợi ích kinh tế.

* Khái niệm quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Trong nền kinh tế kinh tế thị trường, hoạt động của các chủ thể luôn hướng đến mục tiêu lợi ích mà họ theo đuổi và gắn liền với các mối quan hệ phản ánh mục tiêu đó. Do đó, quan hệ lợi ích là những mối liên hệ khách quan giữa các chủ thể trong quá trình sản xuất tạo thành hệ thống quan hệ lợi ích

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí