chữ, lời văn thường “trơn tuột” như lời nói hàng ngày. Nhưng chính sự “trơn tuột” đó tạo nên vẻ đẹp độc đáo của văn chương Sơn Nam. Người ta thấy được những bức tranh thiên nhiên hay sinh hoạt của quê hương và con người Nam Bộ bằng những ngôn từ rất sống, rất thực… Ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày theo ngòi bút Sơn Nam đi vào từng tác phẩm. Sơn Nam viết văn giản dị như nói chuyện “Lời nói trong văn chương cũng như giữa cuộc đời đều toát lên sự hiền hòa chân thật” [91; 32]
Đầu tiên là từ ngữ xưng hô, gọi tên nhân vật mang đậm phong cách Nam Bộ. Người dân Nam Bộ thường xưng hô theo thứ tự trong gia đình. Cũng như các nhà văn Nam Bộ khác, Sơn Nam luôn đặt tên nhân vật của mình bằng những tên thân thuộc, gần gũi như lão Tư Hiếm, ông Hai Muôn, ông Mười Hấu, cô Hai Thêm, anh Hai Nhiệm, cậu Hai Điền… nhưng cái tên đi kèm với biệt danh, bí danh gắn với quê hương xứ sở dễ nhớ, dễ phân biệt như Ba Hò, Tư Cờ Đỏ, Tư Bình Thủy, Tư Châu Xương… Ngoài ra, Sơn Nam gọi những tên thân mật hàng ngày như thằng Lợi, con Bảy, thằng Nhi, thằng Kìm… Đôi khi người đọc còn nhận ra thái độ của tác giả đối với nhân vật khi gọi họ là mụ, con mẻ…
Trong nhiều tác phẩm, người ta dễ dàng nhận ra nhưng câu chuyện, cảnh sinh hoạt xảy ra hàng ngày như đoạn văn trong Mùa “len” trâu , “Thím Tư như phản đối chồng:/ - Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hủ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết./ (…). Trâu đói nữa, con mắt đổ ghèn hoài (…)/ - Mà hết cỏ rồi …” [16a; 38 - 39]. Thông qua những cuộc đối thoại trong từng câu chuyện, người đọc có thể nhận thấy tính cách nhân vật trong mỗi tình huống. Họ chính là những người miền Nam trung hậu thật thà hay những con người có tính độc ác, xấu xa… Có thể nhìn thấy được những niềm vui, nỗi buồn của họ trong cuộc sống của họ. Trong Bốn cái ngu “Mấy người hàng xóm la hoảng lên:/ -… Nuôi heo bầy mà nó chạy cùng đường cùng sá. Sao không nhốt lại. Thiệt hết nói. Tanh rình tanh ói, (…)./ - Chắc tại vợ tôi quên… Vợ tôi nó dại dột thì tôi chịu tội…” [14a; 157]. Chúng ta nhận thấy tính tình hồn nhiên, nghĩ sao nói vậy, không cầu kỳ, hoa mỹ, lời ăn tiếng nói bộc trực, thẳng thắn, không vòng vo… của nhân vật Tư Hưng và từ đó có thể nhận ra hoàn cảnh sống, sinh hoạt của người miền Nam trong lao động hàng ngày.
Trong hệ thống từ ngữ của Sơn Nam, đôi lúc tác giả có sử dụng những từ ngữ lạ nhưng không gây trở ngại với người đọc vì Sơn Nam luôn đặt nó trong bối cảnh mà người đọc có thể liên tưởng, suy luận nội dung của vấn đề. Do đó người đọc khắp vùng miền cả nước đều có cảm nhận được cái hay và hấp dẫn trong từng tác phẩm
của ông. Cũng từ đó phát hiện được tính giản dị, chân chất và trong sáng của ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày của người dân Nam Bộ
4.3.2. Phương ngữ Nam Bộ
Phương ngữ hay cách gọi khác là tiếng địa phương. Phương ngữ là một chuỗi các nét biến dạng từ một ngôn ngữ toàn dân được hình thành do những tác động địa lý, xã hội. Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người Nam Bộ, là biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân. Lịch sử phát triển vùng đất phương Nam gắn liền với các cuộc chiến tranh liên tục, quyết liệt và dai dẳng dẫn đến sự chia cắt địa lý giữa các vùng miền. Điều này dẫn đến tâm lý vốn có của người Việt trước đây là ngại tiếp xúc và giao tiếp với những vùng miền khác. Đây cũng là nguyên nhân đưa tới sự hình thành phương ngữ Nam Bộ, đồng thời làm cho tiếng Việt phải phát triển theo những mô hình xã hội ở những vùng, miền này.
Mỗi nhà văn tùy theo sở thích và khả năng của mình để chọn hệ thống ngôn ngữ cho phù hợp. Nếu các nhà văn cùng thời chọn cho mình hệ thống ngôn ngữ mượt mà, tinh tế thì cùng với Bình Nguyên Lộc, nhà văn Sơn Nam xuất phát từ cảm hứng nhân văn đời thường, luôn có ý thức học tập lời ăn, tiếng nói của người lao động, vận dụng sáng tạo, ghi dấu ấn riêng biệt, đặc sắc trong quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật. Viết về đề tài Nam Bộ, hiển nhiên Sơn Nam huy động vốn sống, vốn hiểu biết về tiếng nói địa phương từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp để xây dựng tác phẩm. Đây là nhân tố quy định ngoài tính khách quan và cũng là con đường mà tác giả đã chọn. Để làm rò ngôn ngữ nhà văn Sơn Nam sử dụng, qua hệ thống tác phẩm của ông chúng tôi nhận thấy từ ngữ Sơn Nam có những đặc điểm cần chú ý:
Có thể bạn quan tâm!
- Trần Thuật Chủ Thể Hay Còn Gọi Là Trần Thuật Chủ Quan
- Trần Thuật Kết Hợp Với Phương Pháp Miêu Tả Chân Thực, Sinh Động
- Ngôn Ngữ Sinh Hoạt Hàng Ngày Mộc Mạc, Dung Dị Đời Thường
- Nghệ Thuật Vận Dụng Văn Học Dân Gian Vào Tác Phẩm
- Bảng Khảo Sát Thành Ngữ & Ca Dao Dân Ca Trong Hương Rừng Cà Mau
- Đinh Trọng Lạc (1993) (Chủ Biên), Nguyễn Thái Hòa, Phong Cách Học Tiếng Việt , Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.
4.3.2.1. Đặc điểm ngữ âm
Trong tác phẩm Sơn Nam, hiện tượng biến thể ngữ âm xuất hiện dày đặc. Biến thể ngữ âm thể hiện rò nhất nét ngôn ngữ đặc trưng của người Nam Bộ. Đó là lớp từ có cách phát âm lệch chuẩn với ngôn ngữ toàn dân nhưng nó không ảnh hưởng đến ngữ nghĩa cần truyền đạt. Những biến thể phát âm này tạo nên lối phát âm riêng biệt của các phương ngữ, nhà văn khai thác các biến thể bằng cách ghi lại đúng cách phát âm. Xét về bình diện ngữ âm, có biến âm trong một từ như phụ âm đầu, phần vần và thanh điệu. Hiện tượng biến âm trong tác phẩm Sơn Nam sinh động, phong phú cùng với một văn phong giản dị, mộc mạc nhưng độc đáo nên gần gũi với con người Nam Bộ.
+ Hiện tượng biến đổi phụ âm đầu
Biến đổi phụ âm đầu được hình thành bằng cách biến đổi phụ âm đầu của từ toàn dân thành phụ âm khác. Do thói quen phát âm đặc trưng của vùng, miền hoặc do ý
đồ nghệ thuật của nhà văn trong quá trình miêu tả hoặc khắc họa nhân vật mà hình thành sự biến âm của ngôn ngữ. Qua khảo sát các sáng tác của Sơn Nam, chúng ta nhận thấy có nhiều dạng biến âm từ âm này sang âm khác như: tr -> ch (chỉ trỏ -> chỉ chỏ, s
-> th (sẹo -> thẹo), nh -> l (nhanh nhẹn -> lanh lẹn), k -> kh (đỏ ké -> đỏ khé), tr -> l (trốn tránh -> trốn lánh), đ -> t (đằng hắng -> tằng hắng), gi -> l (xiêu giạt -> xiêu lạc), gi -> r (xóm giềng -> xóm riềng), qu -> d (quay -> day), qu -> kh (quát nạt -> khoát nạt), th -> x (thuổng -> xuổng), th -> l (thủng -> lủng), b -> ng (giả bộ -> giả ngộ)… Thí dụ: “- Quang cảnh hai bên rộn rịp khác thường, trẻ con đứng lố nhố, chỉ chỏ…” [16a; 210]; “- Nếu trễ nải, tao chết trên giường nầy (…) uổng công trình trốn lánh của tao, từ chục năm nay” [16a; 76]; “- Cọp bước cà nhắc (…) như ông tướng trong tuồng hát bội mắc áo giáp lủng lỗ” [12a; 75]; “- Nó bưng hai dĩa cơm nghi ngút. Đi tới lui” [14a; 118)…
Theo các nhà ngôn ngữ học thì vị trí cấu âm của các biến thể đa số đều tiệm tiến về đầu lưỡi, do vậy việc phát âm bao giờ cũng dễ dàng hơn phù hợp với cách phát âm không gắt cũng như tính cách tự do, phóng khoáng của người Nam Bộ. Sự có mặt của hệ thống biến thể âm đầu nhằm mục đích xây dụng không gian ngữ âm Nam Bộ cũng như khẳng định tính thống nhất của hệ thống các biến thể phương ngữ. Điều này cũng thể hiện sự nhất quán trong ý thức sử dụng biến thể phụ âm đầu của nhà văn Sơn Nam trong tác phẩm.
+ Hiện tượng biến thể phần vần
Những biến thể phần vần trong sáng tác Sơn Nam chiếm số lượng khá lớn bao gồm biến thể của âm đệm, âm chính và âm cuối. Biến thể âm chính là nhiều nhất:
* Hiện tượng biến thể âm đệm
Hiện tượng biến thể âm đệm không đáng kể so với biến thể âm chính. Trong sáng tác của Sơn Nam hiếm khi nhận thấy các từ biến đổi âm đệm, nhưng chúng có thế thấy một số âm: Thí dụ: các âm như: + o -> 0 (nhoáng -> nháng): “Lửa nháng ra, đổ sao, nhưng vẫn không cháy” [16a; 89]; + u -> 0 (huyên thuyên -> huyên thiên): “Lục Che nói huyên thiên…” [15a; 296]…
* Hìện tượng biến thể âm chính
Biến thể âm chính là hình thức biến đổi nguyên âm đơn hoặc đôi trong phần vần của từ ngữ toàn dân sang biến âm khác. Biến âm vần trong sáng tác Sơn Nam đa dạng:
+ Các nguyên âm đơn như: a -> iê, ơ, ô, e… (bảo - > biểu, đàn -> đờn, bản -> bổn, hà -> hè…); â -> iê, ư, ơ… (thật -> thiệt, bàn chân -> bàn chưn, bất nhân -> bất nhơn…); ư -> ơ… (chần chừ -> chần chờ); ê -> i (bệnh -> bịnh); i -> a, ơi… (bất chính
-> bất chánh, phú quý -> phú quới…); u -> o, âu, ươ… (vũ -> vò, chu đáo -> châu đáo…)… Thí dụ: - a -> iê: “Tao biểu điều gì mà đừng cãi” [15a; 256]; - a -> ơ: “Day qua mấy cây đờn… cậu như hối hận” [16a; 159]; - â -> ơ: “ma (…) lòng thòng từ cánh tay, từ bàn chưn, cái đầu rồi ráp lại” [15a; 306]; - i -> ơi: “tôi không màng thứ phú quới đó” [14a; 88]; - u -> o: “Ông Cai… cổ vò cho ai nấy đừng sợ” [12a; 76]
+ Các nguyên âm đôi: oa -> ươ, uê, ô… (hoàn -> hườn, hòa -> huề, thoái -> thối…); ươ -> u, a… (đường -> đàng, phượng -> phụng…); iê -> a, ơ… (duyên -> doan, quyền -> quờn…); ia -> a… (kìa -> cà…); uô -> ươ (ghen tuông -> ghen tương…)… Thí dụ: - oa -> uê: “Người Huê Kiều nói tiếng Việt khá rành” [14a; 292]; - ươ -> a: “Lắm khi đi lạc đàng trở về xóm cũ, họ chờ ngày khác” [14a; 227]; - iê -> ơ: “Cô Tư Hạnh biết cầm roi đáng quờn” [14a; 27]; - ia -> a : “Sao vậy cà? Sao vậy cà? (…) sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy?” [15a; 46]; - uô -> ươ : “Hắn ghen tương, trả thù” [15a; 257]…
* Hiện tượng biến thể phụ âm cuối
So với hiện tượng biến âm ở âm chính thì biến âm ở phụ âm cuối không nhiều, có những dạng như âm: nh -> n (kí ninh -> kí nin), ng -> n (bò càng -> bò càn), t -> c (ngoắt -> ngoắc), m -> n ( rầm rộ - rần rộ), m -> p (tầm nã -> tập nã)…Thí dụ: - ng -> n: “sau khi… trăn trối với vợ con” [15a; 112]; - t -> c: “Nghe em hỏi tức, anh trả lời phức cho rồi” [14a; 228]; - m -> p : “Không ai tập nã mầy đâu.” [14a; 69]…
Sơn Nam sử dụng có định hướng cụ thể, sự xuất hiện dày đặc với số lượng lớn hiện tượng biến âm trong quá trình sáng tác, tạo nên nét khu biệt, giọng điệu riêng, một giọng “rặc” chất Nam Bộ, có giá trị biểu cảm so với ngôn ngữ toàn dân.
4.3.2.2. Đặc điểm từ vựng
Từ vựng trong phương ngữ Nam Bộ được sử dụng trong tác phẩm văn chương Sơn Nam rất đa dạng. Trong khuôn khổ luận án, người viết chỉ đề cập đến một số lớp từ như: Lớp từ định danh, lớp từ chỉ đặc điểm vùng đất, cuộc sống sinh hoạt…
a. Lớp từ định danh chỉ một số động thực vật ở Nam Bộ
Trong tác phẩm Sơn Nam, lớp từ địa phương chỉ động thực vật xuất hiện khá phong phú. Nhà văn tái hiện thật sinh động không gian đất rừng phương Nam trong thời kỳ đầu, con người đi khai khẩn và xây dựng cuộc sống mới. Hàng loạt từ ngữ chỉ động vật được miêu tả trong tác phẩm Sơn Nam, giới thiệu cho người đọc có thể thấy không gian hệ sinh thái phong phú của miền Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng: cá (cá sấu, cá linh, cá lóc, cá sặc, cá thia thia, cá hường, cá nược…); ba khía; cua đinh; chim (chim chàng bè, chim già sói, chim cúm núm, chim cu cườm, chim cồng
cộc, chim chó đồng…), cọp; khỉ; xà niên (loại khỉ to lông dài), rắn (rắn mai gầm, rắn nẹp nia, rắn ri voi, rắn trun, rắn mai gầm, rắn hổ đất…), rùa….
Trong nhóm từ chỉ động vật trong tác phẩm Sơn Nam thì từ chỉ loài cá, chim, rắn xuất hiện nhiều và đa chủng loại. Chúng là những động vật gần gũi với cuộc sống lao động của người bình dân. Sơn Nam đã chủ ý giới thiệu sự phong phú của các loài cá. Cá sống và sinh sản các sông, ao đìa nhiều vô kể “Trong cái đìa sau trại, cá quậy nước nghe ầm ầm. Hàng ngàn con cá to đã gom vào đó”, vào mùa khô, đìa nước cạn “cá gom lại nổi đầu khít rịt như trái mù u” [12a; 176], cá biển, cá nước lợ theo dòng chảy của thủy triều vào sâu vào những con sông. Nhưng đến mùa nước lụt, cá lại trôi theo nước ra xa vàm biển. Bên cạnh sự phong phú của loài cá, hàng ngàn sân chim lớn nhỏ ở rừng U Minh được Sơn Nam mô tả vào trong tác phẩm thật sinh động “Nào là sân Cái Nước, sân Thầy Quơn, sân Thứ Nhất (…) hàng vạn con chim bay về đây làm tổ tạo thành một thế giới náo nhiệt” [16a; 71]. Rừng U Minh là nơi quy tụ vô vàn sân chim, chúng sinh sôi rất nhanh trên cây, dưới đất “làm ổ trên cây thì có chim chàng bè, chim giả sói, chim chó đồng. Làm ổ dưới đất có chim bồ nông là đáng kể” [16a; 209]. Trong Tiếp cận với đồng bằng sông Cửu Long, Sơn Nam giới thiệu một cách tự hào “từ khi ta mở nước, chim (già sói, còn gọi là lão nông) qui tụ về ven rừng U Minh, thêm chim thằng bè, bồ nông (…) từ phía Biển Hồ (Kampuchia) kéo về sinh sôi nảy nở” [37b; 114 – 115]. Sự phong phú của những sân chim tạo nên vẻ đẹp tự nhiên, hoang sơ của vùng đất Nam Bộ thời sơ khai. Đây cũng là một trong những nét đặc thù của sinh thái của vùng cực Nam tổ quốc.
Miền Nam không chỉ có cá, có chim… những sản vật thiên nhiên hữu ích mà còn có những động vật gây nguy hiểm, đe dọa cho cuộc sống và con người thời khẩn hoang. Chúng là rắn, hổ, sấu.. là những loài động vật nguy hiểm, là nỗi ám ảnh thường trực đối với người khai hoang được nhà văn miệt vườn miêu tả tỉ mỉ, xuất hiện xuyên suốt trong các tác phẩm tạo nên một thế giới hoang sơ, trù phú của vùng đất mới. Ngoài ra còn có rắn. Rắn không phải là các loại động vật chỉ xuất hiện ở miền Nam nhưng nó xuất hiện dày đặc trong tác phẩm Sơn Nam như là một minh chứng cho một vùng đất nhiều rắn, các loại rắn được kể tên như rắn nẹp nia, rắn bông súng, rắn ri voi, rắn trun…, có loại rắn cực độc, chỉ cần cắn một cái là chết ngay như rắn mai gầm, rắn hổ đất… có loại rắn không độc mà còn có ích với con người “Loại rắn ri voi hàng hà sa số” [14a; 295] .
Bên cạnh đó, những sinh vật gắn bó với con người đi vỡ đất trong buổi đầu khai hoang là những con thú dữ như sấu và cọp. Cọp sống khắp rừng U Minh, Sấu nhung
nhúc dưới các kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long. Đây là mối đe dọa khủng khiếp của người thời khẩn hoang. Hình ảnh sinh động được nhà văn ghi lại trong Hết thời oanh liệt “Kỳ dư, ven sông Cái Lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu” [15a; 217]. Hình ảnh “ông cọp”, “ông sấu” luôn gắn liền với đời sống cũng như trong mọi sinh hoạt của người dân. Trong Hát bội giữa rừng, một hình ảnh rùng rợn “Cọp đang bơ vơ ngồi trên rạch, sấu thì đành ngóng mỏ, ngoài vòng” [15a; 207 – 208]. Thông qua lớp từ chỉ động vật, Sơn Nam đã giới thiệu được sự phong phú của hệ động vật của miền Nam.
Ngoài những từ chỉ động vật là lớp từ chỉ thực vật. Miền Nam là vùng đất mới, hệ thực vật ở đây còn hoang sơ, những loại thực vật xuất hiện trong tác phẩm Sơn Nam thường xuyên trở đi trở lại như sen, bồn bồn, cóc kèn, ơ rô, dây choại, gừa, bình bát, mốp, mù u, lác, bàng, lứt, năn…; các loại thực vật vùng nước ngập mặn như dừa nước, mắm, bần, vẹt, đước, tràm… Ba loại cây mắm, đước, tràm có vai trò lấn biển, giữ và bồi đắp cho đất rừng, có khả năng chịu được sóng gió. Chúng có giá trị kinh tế đồng thời biểu trưng cho tính cách kiên cường của con người tiên phong “xâm rừng lấn biển”. Nếu đước và mắm là linh hồn của rừng Sác Cà Mau thì tràm là biểu tượng cho vẻ đẹp hoang sơ và bền bỉ của đất rừng phương Nam. Tràm là loài cây bám rễ với vùng đất nhiễm phèn nặng. Rừng tràm thay lá, lá tràm rụng trên mặt đất, gặp mưa, lá liền phân hủy, ngấm qua than bùn, chảy xuống kênh, rạch tạo thành một màu đỏ sậm “không có nước đỏ, không phải là U Minh”, loại nước nhiều chất đạm, dưỡng chất, ngọt và mát giúp cho các loài động, thực vật phát triển như loại cá đồng. Hoa tràm là điều kiện thuận lợi để cho ong sinh sôi, đem lại nguồn lợi lớn về mật và sáp ong. Đây là một sắc màu đặc trưng độc đáo của rừng U Minh.
Trong tác phẩm Sơn Nam, người ta còn thấy cả một danh sách từ ngữ định danh chỉ những thực vật phong phú và đa dạng mang tính đặc trưng của miền Nam như đào lộn hột, bưởi thanh trà, khóm, khoai môn, khoai mì, chôm chôm, mận sọc xanh, mật sọc đỏ, chuối cau, chuối hột… Qua đó, người ta nhận thấy sự ưu đãi của thiên nhiên đối với cuộc sống của con người miền Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng. Sự xuất hiện dày đặc của từ ngữ định danh trong sáng tác thể hiện sự uyên bác của nhà “Nam Bộ học” cũng là nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
b. Lớp từ chỉ đặc điểm, địa hình tự nhiên ở Nam Bộ
Địa hình miền Nam là môi trường sông nước, hệ thống kênh rạch chằng chịt quy định nhịp sống của con người Nam Bộ từ công việc lao động hàng ngày đến sinh hoạt, vui chơi qua từng con nước, mùa nước nổi, mùa mưa, mùa khô, nước lên, nước xuống.
Người lao động biết tính giờ khi nhìn con nước lên xuống, đoán biết thời tiết lúc nghe ngọn gió, nhìn kênh rạch để đoán biết thời vụ cá tôm, thóc lúa, hoa màu… Dấu ấn sông nước nổi bật hệ thống từ chỉ đặc điểm địa hình, hiện tượng tự nhiên ở Nam Bộ trong tác phẩm Sơn Nam được thể hiện rất rò.
Nhóm từ phản ánh đặc điểm địa hình, sông nước ở Nam Bộ như sông, nước, kênh rạch bàu, mương, ngọn cùng, ngọn kinh, ngọn rạch, xẻo, vàm, lạch, rộc…, những tên gọi phản ánh hiện tượng tự nhiên liên quan đến sự vận động của các kiểu gió: gió trở ngọn, gió chướng, gió nồm… hay sự vận động của dòng nước: nước lụt, nước ngập, nước lên, nước lớn, nước ròng, nước giựt, nước nổi, nước đứng, nước dậy…; lớp từ phản ánh địa hình như: giáp nước (chỗ gặp nhau giữa hai dòng nước), lạch (dòng nước chảy tự nhiên), xẻo (lạch nhỏ), trấp (vùng nước có nhiều loại dây hoang, cỏ dại, bám thành giề nổi trên mặt nước)…; lớp từ chỉ địa thế trồng trọt như: ruộng, vườn… Địa thế sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt tạo nên những phong tục tập quán, lối sống, tính cách… của người dân Nam Bộ, hình thành lên một nền văn hóa gọi là “văn hóa sông nước” và một nền văn minh gọi là “văn minh miệt vườn”. Địa hình như vậy tạo nên một nền kinh tế cũng đa dạng: trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt, thủ công nghiệp, chủ yếu là trồng lúa nước. Đặc điểm địa hình cũng chi phối vấn đề định cư của người dân Nam Bộ. Họ cư trú chủ yếu ở ven sông, ven rạch để thuận lợi trong việc di chuyển bằng đường thủy: đánh bắt hải thủy sản, trao đổi hàng hóa, trồng trọt, tưới tiêu…
Không gian sông nước còn là nơi sản sinh ra những nền văn hóa Nam Bộ như giọng hò bánh bò của con Bảy đưa đò ở rạch Cái Mau mà ai nghe cũng muốn gặp mặt (Con Bảy đưa đò); tinh thần yêu mến hình thức nghệ thuật hát bội (Bà Chúa Hòn, Hát bội giữa rừng…); hát huê tình – lối hát đối đáp giao duyên giữa trai với gái (Vọc nước giỡn trăng, Ngày xưa tháng chạp…); yêu mến thơ ca dân gian (Thơ núi Tà Lơn, Tình bậu muốn thôi…); hình thức thai đố (Câu thai đố, Ngôi mộ chôn đứng…). Ngoài ra, nó còn được khắc họa với những phong tục, tập quán, nếp sống, ý nghĩ… nhà văn cũng đề cập đến những biến cố lịch sử quan trọng ở vùng đất mới Nam Bộ: Các cuộc khẩn hoang, mở còi của những người di dân (Xóm Bàu Láng, Ruộng Lò Bom, Con cá chết dại…); Sự có mặt của thực dân Pháp trong đời sống người dân Nam Bộ (Con trích ré, Đồng thanh tương ứng, Chim quyên xuống đất…); những cuộc ruồng bố của thực dân Pháp trên mảnh đất miền Nam (Chuyện năm xưa, Con ngựa đất…); những con đường củi do Pháp mở được hình thành (Sông Gành Hào, Nhứt phá sơn lâm…); những cuộc chiến đấu với thực dân của người dân Nam Bộ (Chiến khu 9, Đảng“Cánh buồm đen”, Chuyện tình của một người thường dân…), Nhật đảo chánh Pháp ở vùng U Minh
Thượng (Ăn to xài lớn)… Những biến cố lịch sử này xảy ra trên cái nền không gian sông nước được cảm nhận qua tâm hồn con người. Từ những mốc lịch sử, tác giả muốn phản ánh chân thực bức tranh thời đại với những mảng màu sáng tối đan xen để từ đó nêu lên được những vấn đề sâu sắc về con người và cuộc đời. Có thể nói, dòng sông, thiên nhiên chính là chiều rộng và chiều sâu mang đặc trưng riêng của không gian miền sông nước. Qua đó, nhà văn thể hiện được cái tình, tính cách, tư tưởng, tình cảm cũng như sức sống mãnh liệt của con người nơi đây. Rò ràng chỉ những ai sống ở đây mới cảm nhận được đầy đủ những nét đặc trưng của không gian sông nước.
Nhìn chung, lớp từ chỉ đặc điểm địa hình, hiện tượng tự nhiên trong ngôn ngữ Nam Bộ nói chung, trong tác phẩm Sơn Nam nói riêng phong phú và đa dạng. Lớp từ này chủ yếu được hình thành dựa trên cảm tính, nhờ vào sự quan sát đặc điểm thực tế của sự vật, hiện tượng để gọi tên phản ánh sinh động cuộc sống của người dân Nam Bộ trên “xứ sở của những dòng sông”. Điều này chứng tỏ Sơn Nam có một hiểu biết sâu rộng và một kiến thức uyên bác về địa hình, thổ nhưỡng, sinh vật… trên mảnh đất phương Nam khó ai có thể vượt qua, xứng đáng với cái tên mà mọi người đặt cho ông: Nhà Nam Bộ học.
c. Lớp từ chỉ phương tiện di chuyển
Lớp từ này bao gồm các phương tiện di chuyển trên sông nước cũng như trên đất liền ở Nam Bộ. Tuy nhiên, số lượng từ chỉ phương tiện trên sông nước chiếm đa số. Nhóm từ ngữ thứ nhất chỉ phương tiện di chuyển trên đất liền bao gồm các loại xe có máy sử dụng xăng dầu thay cho sức vận động của con người như xe lôi, xe máy, xe hơi, xe đò…; các loại cầu như: cầu khỉ, cầu ván… Với địa hình của miền Nam chủ yếu là sông nước, đường bộ không nhiều, người ta thường sử dụng xe để di chuyển trên đất liền. Xe lôi là loại xe có thùng chở khách gắn sau xe đạp hay xe gắn máy. Xe hơi là xe bốn bánh trở lên; xe đò hay còn gọi là xe khách là loại xe lớn dùng để chở khách các tuyến liên huyện hay liên tỉnh. Địa hình sông rạch chằng chịt, cầu khỉ, cầu ván là phương tiện di chuyển bắc qua kênh, qua rạch. Hiện nay, dù khoa học kỹ thuật đã tiến những bước khổng lồ, nhưng khi về miền Tây Nam Bộ, người ta vẫn thấy những chiếc cầu khỉ, cầu ván ở những thôn, xóm nhỏ. Và ấn tượng về những “chiếc cầu tre lắt lẻo”, “những chiếc cầu ván đóng đinh” sẽ còn đọng lại mãi trong tiềm thức của mọi người qua ca dao, lời ca tiếng hát.
Nhóm thứ hai là những từ chỉ phương tiện hoạt động trên sông nước như xuồng (xuồng lường, xuồng ba lá…), ghe (ghe lườn, ghe thương hồ, ghe ngo, ghe bầu…), tam bản… Tùy theo đặc điểm, hình dáng, chức năng của mỗi loại phương tiện mà được