Phong cách nghệ thuật Sơn Nam - 14


ra cách cư xử hài hòa giữa ba yếu tố Thiên – Địa – Nhân.

3.3.2.2. Văn hóa tín ngưỡng:

Sơn Nam nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu sắc về văn hóa tín ngưỡng của người miền Nam, ông “phát hiện” rằng miền Nam là vùng “đa tôn giáo”. Trong các tác phẩm của của ông Đạo Phật là đạo chính trên vùng đất mới “người “An Nam” mộ đạo Phật” [16a; 187]. Tuy nhiên, trong quá trình mở còi, lưu dân khắp nơi đến miền Nam đều mang theo mình một tôn giáo, lâu dần những tôn giáo ấy được dung hòa trên vùng đất mới. Họ là những người ít học, đa số không thấm nhuần các triết lý tôn giáo, họ tin tất cả thần thánh, dung nạp rất nhiều văn hóa tín ngưỡng của Người Việt, người Hoa, người Khmer… Niềm tin của họ vào tôn giáo chất phác và hồn nhiên, trong Sông Gành Hào Tư Đức nói “Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quý mến ông già bà cả” [16a; 187]. Bên cạnh đó, luật nhân quả của thuyết lý Phật giáo cũng được Sơn Nam thể hiện một cách sinh động, trong tiểu thuyết Bà Chúa Hòn, Bá Vạn giết chết hai cha con Chúa Hòn, cuối cùng lão cũng bị hại bởi Mười Hấu và thằng Cẩu. Trước khi Bá Vạn nhắm mắt xuôi tay, ông ta đã nhìn thấy hồn nạn nhân trở về đòi công lý, cuối cùng ông nhận ra "Cuộc đời tội lỗi của tôi… Mọi người đều trở về với đất" [7a; 312]. Để tránh được các nghiệp chướng ở đời, cô Huôi dù rất oai phong, được mọi người kính nể, cô vẫn chọn con đường đi tu cho nửa đời sau của mình. Các truyện Chim quyên xuống đất, Hình bóng cũ, Mây trời và rong biển… cũng phản ánh sinh động quy luật ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ. Nhiều tác phẩm của Sơn Nam mang triết lý dân gian và có kết cục giống như truyện cổ tích “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”.

Tín ngưỡng thờ linh vật giáo được mang từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam. Người Nam Bộ tin vào sự thiêng liêng và sẵn sàng thờ những vật dụng từng gắn bó thân thiết với con người. “Chiếc ghe ngo” theo họ là là hiện thân của rắn thần ác Naga được Phật Thích Ca cảm hóa trở nên linh hiển do vậy người Miên khoét thân của cây sao theo hình con rắn và hằng năm tham gia bơi đua trên sông để mừng “mùa nước nổi”. Theo tục lệ, người ta đào chiếc ghe ngo bị trầm tích “đem xác nó về gần chùa mà thờ" [14a; 201-202]. Trong quan niệm đơn giản về tín ngưỡng của người nông dân Nam Bộ, họ thờ cả những con vật dữ như sấu, cọp… Đối với họ, giết cọp, giết sấu là do nhu cầu thiết yếu của sự sinh tồn nhưng giết những con vật này cũng là "sát sanh" nên giết xong thì phải thờ "Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết nhưng giết được rồi thì mình nên thờ” [14a; 201]. Ngoài ra, họ còn thờ những vật dụng hàng ngày như những viên đá mà họ nhặt được khi cày ruộng (Hình


bóng cũ). Họ quan niệm rất hồn nhiên và giản dị, ở những nơi còn lạ lẫm đối với người tha phương thì cái gì cũng thiêng liêng như là “hồn thiêng sông núi.

Một tập tục nữa của người dân Nam Bộ, đó là “lên xác”. Lên xác là hình thức thần thánh mượn xác phàm để nhập vào, con người cần biết điều gì thuộc về siêu nhiên, khó lý giải hoặc cầu xin phù hộ cho công việc làm ăn, gia đạo yên lành… thì họ tổ chức “lên xác”. Hình thức “lên xác” có thể diễn ra ở bất cứ nơi đâu mà họ cho là có thần thánh. Hình thức này cũng giống như “Hầu đồng” ở miền Bắc và miền Trung nhưng hầu đồng cần sự chuẩn bị trước, mang tính qui mô, nơi diễn ra thường là đền, miếu, đình làng… Còn “lên xác” có thể bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào cần. Trong Hình bóng cũ, lão Henry Nhan đã lợi dụng hình thức “lên xác” để mưu cầu lợi lộc, chiếm đất của người nông dân đã ra công khai phá “Xác lại ra lệnh cho tôi (…) mướn lại đất của Chúa Ngưng, Ma Nương trong vòng một năm” [12a; 328]. Chúa Ngưng, Ma Nương theo niềm tin của người dân Nam Bộ chính là hai vị thần cai quản đất đai. Ngoài ra, còn có hình thức lên xác hổ, lão Khăn Đen trong Xóm Bàu Láng “lên xác Bạch hổ, Hắc Hổ để đuổi tà ma” trị cái bệnh “dở người” của con Lài. Từ khi cậu Hai – chồng nó uống thuốc độc thay, con Lài lúc nào cũng bị ám ảnh vì cái chết của chồng nên cứ đêm đến nó “lang thang ngoài vườn, kêu khóc, chẳng dám ngủ trong phòng” [10a; 392]. “Lên xác” được Sơn Nam đề cập nhiều trong Hình bóng cũ, Bà Chúa Hòn, Vạch một chân trời

Bà Chúa Xứ6 cũng được người miền Nam tin tưởng và thờ cúng tín ngưỡng này còn tồn tại cho đến ngày nay. Bà Chúa Xứ là hiện thân của Bà Chúa của vùng đất mới, lưu dân Nam Bộ có niềm tin thờ Bà sẽ được Bà ban cho nghị lực và sự thuận lợi trên bước đường “khai sơn phá thạch”, có thể “được mạnh khỏe, không bị sốt rét, tránh rủi ro nghề nghiệp” [21b; 173]. Trong Vạch một chân trời, lũ Tàu ô khấn vái xin Bà Chúa xứ phù hộ, ông Chúa Hòn người Hoa, giàu có, uy phong lẫm liệt cũng đến miễu Bà Chúa xứ thờ cúng, lễ bái (Bà Chúa Hòn)… Những truyện Sơn Nam đề cập đến Bà Chúa xứ như Bà Chúa Hòn, Vạch một chân trời, Miễu Bà Chúa Xứ…

Sơn Nam còn đề cập đến tục cúng đất, cúng thần, cúng tổ, ma chay... Bất cứ ngành nghề gì cũng có ngày cúng tổ. Ngư dân muốn bắt được nhiều tôm cá thì phải chọn ngày tốt gọi là ngày “Bổ tróc” (ngày săn bắt) để lập đàn cúng "Xây nò thì phải hạ thủy đúng ngày bổ tróc, như người cất nhà xem ngày để gác đòn dông" [12a; 30].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.


6 Nguồn gốc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là dựa theo truyền thuyết cách đây khoảng 200 năm ở vùng Châu Đốc (An Giang), tượng Bà được dân địa phương phát hiện trên đỉnh núi Sam và được 9 cô gái đồng trinh khiêng xuống theo như lời dạy của Bà qua miệng "cô đồng", nên người dân đã lập miếu để tôn thờ.

Phong cách nghệ thuật Sơn Nam - 14


Lưu dân rất tin vào sự tồn tại của thế giới bên kia. Họ cho rằng những hồn ma không siêu thoát sẽ luôn lẩn quất bên cạnh những người thân hoặc những kẻ gây ra cái chết cho mình. Trong Hình bóng cũ, tác giả viết “Họ có thể gặp tôi bất cứ giờ phút nào, bất chấp cả những bức tường ngăn cách" [12a; 348-349]. Họ không quên những cô hồn dã quỉ không nơi nương tựa như là một sự tri ân đối với lớp người đi trước phải bỏ mạng trên bước đường khai hoang. Đây là một nét đẹp trong tính cách của người Nam Bộ, lão Năm Hên, người bắt sấu tài ba trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ, sau khi giết những con sấu dữ xong bao giờ cũng cầm bó nhang cháy đỏ rực quơ đi quơ lại và khấn vái bằng lời hát bi ai để giải oan cho những kẻ chết oan do hùm, sấu bắt “Hồn ở đâu đây?/ Hồn ơi! Hồn hỡi!/ (…)/ Ta thương ta tiếc/ Lập đàn giải oan!” [14a; 87].

Sơn Nam đã rất công phu trong công việc nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng ở Nam Bộ, ông cho rằng ngoài đạo Phật là tôn giáo truyền thống thì còn có những tôn giáo khác được hình thành từ những mục đích khác nhau của người sáng lập như đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, đạo Dừa, đạo Đất… Bên cạnh đó, còn có những tôn giáo lưu nhập của các dân tộc khác như Hoa, Chăm, Khmer và theo thời gian hòa nhập trên đất Việt. Ngoài ra còn đạo Thiên Chúa khi Pháp vào miền Nam. Đây chính là sự giao lưu, tiếp biến của tín ngưỡng các dân tộc và cũng là nét đặc trưng của văn hóa tín ngưỡng Nam Bộ. Điều này đã tạo nên sự phong phú của tôn giáo Nam Bộ như ngày nay.

3.3.2.3. Văn hóa nghệ thuật

Sơn Nam có một bộ sưu tập về văn hóa nghệ thuật của Nam Bộ mà có lẽ không có ai sánh bằng. Nhà văn đã có công tìm tòi lý giải các dạng hình thái nghệ thuật vùng sông nước, chúng xuất hiện dày đặc trong các tác phẩm của nhà văn. Một thời gian dài, ông đi khắp vùng lục tỉnh để sưu tập những bài ca, tiếng hát của người dân địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Sống trên một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, con người không phải lo lắng nhiều về vấn đề cơm áo. Cái nghèo của họ là cái nghèo phong lưu, thời gian nhàn rỗi ăn chơi thỏa sức. Một số vùng đất đai phì nhiêu, khi được mùa họ tha hồ ăn xài suốt tháng giêng cờ bạc hay tập trung đàn ca vọng cổ… Hát hò trở thành một hình thức vui chơi giải trí “cốt để khuây khỏa nỗi nhớ nhà” cho những người tha phương cầu thực, bỏ xứ đi làm ăn xa. Có nhiều hình thức sinh hoạt nhưng phổ biến nhất là ca vọng cổ, hát huê tình, hát nói Vân Tiên, hát bội, cải lương…

Hát bội là loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Nam Bộ có nguồn gốc lâu đời từ miền Trung (Quảng Nam, Bình Định), được các lưu dân Việt trên đường Nam tiến đã mang theo để tưởng nhớ cội nguồn, ông bà tổ tiên. Hát bội được giới bình dân


tán thưởng vì nội dung hát bội gợi lên những tình cảm nhân bản “dân mình thì nghèo lắm (…) chỉ có hát bội là cách giải trí độc nhất của người đi khai phá đất mới” [15a; 205]. Trong Hát bội giữa rừng, mô tả lòng ham mê hát bội của dân Nam Bộ, tác giả đã tạo ra một bối cảnh rất rùng rợn: dưới sông cá sấu ghếch mỏ nhìn, trên bờ cọp trông xuống, người xem hát ngồi trên xuồng trong một hàng rào bằng cây tràm giữa sông. Người Việt mời người Miên chung tay góp gạo nuôi gánh hát. Ban ngày, mọi người đi làm, ban đêm đi ghe xem hát bội. Đối với họ, đó là ngày hội lớn "Xóm Khoen Tà Rưng rộn rịp còn hơn Tết. (…). Đêm hát ra mắt vui quá là vui..." [15a; 20]. Hát bội không chỉ là thú vui giải trí mà còn là biểu hiện danh dự của những gia đình giàu có, khá giả ở phố chợ hay ở thôn quê, họ có thể “rước gánh hát bội về trình diễn trước nhà để mời bạn bè thân thuộc đến xem kèm theo ăn uống” [33b; 278]. Họ không tiếc tiền của mà còn lấy làm hãnh diện và vinh dự vì điều đó. Trong Một kiểu anh hùng, hai nhân vật uy quyền và giàu có của làng là Hội đồng Hai và Cai tổng Ba tranh nhau một miếng đất nhỏ rìa làng, miếng đất không đáng giá nhưng vì sĩ diện cả hai quyết tâm giành cho bằng được mà không ngại thưa kiện. Cai tổng Ba thắng, mời gánh hát bội về nhà trình diễn vừa để ăn mừng vừa chọc tức kẻ thù. Hội đồng Hai căm tức đến độ có ý định giết người “việc kêu gánh hát về làng, rò ràng là điều sỉ nhục” [16a; 639]. Ngoài ra, hát bội được xem là món ăn tinh thần linh thiêng, dùng để cúng tế Thành hoàng ở đình làng “dâng cúng thần và cho dân làng xem” [173; 151]. Rất nhiều tác phẩm của Sơn Nam đề cập đến hát bội như là Bà Chúa Hòn, Hát bội giữa rừng, Hết thời oanh liệt, Tình nghĩa giáo khoa thư, Hồi ký…

Hò vè là hình thức văn nghệ đặc biệt của miền Nam, đây là lối giải trí phổ biến của nam, nữ vùng sông nước, do môi trường sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, đồng ruộng bao la, con người đang chèo ghe trên sông hoặc cấy lúa trên ruộng có thể hò lên vài ba câu để tự giải trí cho mình, nếu có người nghe đối đáp lại thì có thể là bạn hữu hay có duyên nợ thì thành vợ chồng hoặc đơn giản chỉ tạo giây phút thoải mái trong lúc cô đơn hay mệt nhọc. Người dân “miệt vườn” miền Nam sáng tác ra nhiều điệu hò như hò Mỹ Tho, hò Cần Thơ, hò Ngã Bảy, hò Cái Bè… Trong Hồi ký, Sơn Nam ghi “Lối rao hàng: (…) Bánh bò hông, bánh bò hơ… ơ…, mở đầu cho điệu hò đặc biệt ở Cần Thơ, điệu hò Bánh bò, ngoài điệu hò Thới Lai sẵn có” [13a; 119]. Hò Bánh bò khó hơn hò Cấy lúa vì hò Cấy lúa được hò lên khi mọi người cùng đứng gần nhau trên một cánh đồng, còn hò Bánh bò là loại hò khi chỉ một mình trên sông, phải hò to, rò, trong trẻo, hơi dài thì người mua mới nghe được. Tác giả viết cả một truyện ngắn Con Bảy đưa đò để mô tả điệu hò này. Chàng trai giang hồ xứ Bình Thủy đã bộc


lộ chí lớn của mình trong lời đối đáp “Kiến nghĩa bất vi vô dòng giã/ lâm nguy bất cứu mạc anh hùng/ Nàng còn nghĩ phận chữ tòng/ thì trao dây xích buộc vòng sao đây” [14a; 240]. Chỉ qua một đêm hát đối đáp, cô Bảy thề giữ trọn “một tấm lòng” và ở vậy tới già để chờ người con trai lạ. Khác nào Kiều Nguyệt Nga giữ vẹn lòng chung thủy với Lục Vân Tiên chỉ sau một lần gặp mặt. Đây chính là tính cách trọng tình nghĩa, thủy chung người dân miền Nam mà Sơn Nam muốn thể hiện trong các tác phẩm của mình. Nhiều triết lý của người Nam Bộ được thể hiện qua các câu hò.

Hát huê tình (hò đối đáp) là một nét đặc sắc trong văn hóa sông nước Nam Bộ. Hình thức sinh hoạt bình dân và phổ biến thời khẩn hoang vùng sông nước. Hát huê tình là những câu hát cửa miệng, không có sách, không có bổn tuồng, người hát tùy vào hoàn cảnh và kiến thức có được mà linh hoạt trong đối đáp. Không gian thích hợp nhất là trên sông, đồng ruộng, chỗ lao động có đông người tham dự. Mục đích để giao lưu và giải trí sau những giờ lao động mệt nhọc và bày tỏ tình cảm, tâm sự với nhau7. Trong Ngày xưa tháng chạp, ông Ba giảng giải "Hồi đó, hò có lớp lang đầu đuôi... Chúc mừng lẫn nhau, chúc mừng chủ ruộng, tạ ơn Thần Nông" [12a; 172-173]. Hết đời này sang đời khác, hình thức hát huê tình vẫn được duy trì. Người lớn tuổi truyền đạt lại cho người trẻ tuổi, trong Vọc nước giỡn trăng, ông Năm Lượng dạy cho Điệu cách hát huê tình “Người ta xúm nhau thách đố, cười thật lớn, châm chọc thật đau, cho qua quên mệt nhọc, để rồi quên tất cả" [12a; 280]. Những truyện nói đến hát huê tình là Ngày xưa tháng chạp, Chuyện rừng tràm, Vọc nước giỡn trăng, Cô Út về rừng…

Hát vọng cổ là hình thức nghệ thuật ra đời muộn hơn hò, vè nhưng dần dần thay thế hò vè vì vọng cổ cần kỹ thuật cao hơn hò vè đồng thời thường có âm điệu buồn, thích hợp để bộc lộ nỗi nhớ nhà của những người tha hương. Đó cũng cách thức để họ bộc lộ những nỗi lòng thầm kín trong tình yêu, chuyện riêng tư gia đình đến chuyện nhân tình thế thái ngoài xã hội. Trong Dạo chơi, Tuổi già, Sơn Nam ghi nhận sau khi vọng cổ ra đời thì lý, hò, vè dần dần mất chỗ đứng. Người chèo ghe, gặt lúa ca vài câu vọng cổ là thỏa mãn tình cảm. Người dân thường hát vọng cổ trong các buổi nhậu nhẹt tiệc tùng "ban đêm họ đốt đuốc… để ăn uống, ca hát". Rượu vào, lời ra, khí thế hát hò tưng bừng. Đi kèm với lời ca vọng cổ là phần đệm nhạc, có gì đệm nấy, có khi gò đũa vào thùng thiếc, vào mâm chén cũng thành ra nhạc hẳn hoi. Sang trọng hơn, nhạc cụ là đàn kìm, đàn ghi ta. Truyện ngắn Ông già xay lúa miêu tả một khung cảnh khá điển hình cho hình thức sinh hoạt văn nghệ của người dân Nam Bộ.


7 Hát vọng cổ: Có ba lối hát huê tình: hát truyện là lối hát dùng tích trong truyện xưa, truyện tàu; hát văn là dùng cách ngôn thánh hiền; hát mép là lối hát thông thường và khó hơn hết, dùng dẫn liệu từ đời sống.


Ông Năm đang xay lúa, bên cạnh ông là tiệc rượu “Ai làm cứ làm, ai hát cứ hát, ai đàn cứ đàn” [16a; 157]. Một số vùng đất đai phì nhiêu, đất không cần bón phân, mãn mùa lúa, đến mùa dưa hấu trồng ngay trên ruộng, một vốn bốn lời nên "họ tha hồ ăn xài suốt tháng giêng cờ bạc, đờn vọng cổ lai rai đến lúc tháng ba sa mưa" [15a; 11]. Hầu như ai cũng đam mê thú vui giải trí "cờ bạc đờn ca vọng cổ mùi mẫn" [14a; 298]. Giới điền chủ sử dụng tiền bạc của mình để giải trí bằng nhiều kiểu nhưng “Hết tiền thì ngồi nhà đờn ca vọng cổ hoặc nói chuyện tiếu lâm" [16a; 155]. Còn những người tá điền nghèo khổ, quanh năm vất vả thì ca vọng cổ, ăn uống nhậu nhẹt, ăn chơi liều mạng… cũng là niềm vui quên đi muộn phiền vì họ cho rằng không thể nào nghèo hơn được nữa. Vọng cổ được đề cập rất nhiều trong Người tình của cô đào hát, Hồi ký, Hội ngộ bến Tầm Dương…

Thai đố8 là hình thức giải trí của người bình dân xưa ở Nam Bộ. Nhân dịp lễ lạc nào đó, các vị kỳ lão trong làng ra thai đố cho trẻ con, nam nữ trẻ tuổi nêu suy nghĩ, đối đáp, ứng xử nhanh nhạy. Thai đố là hình thức “đố vui để học”. Người giải đáp phải có câu trả lời tương ứng với câu chữ trên từng dòng thơ, ca dao, những lời ngắn gọn… Không gian phù hợp là những nơi dân chúng tập trung như đình miếu, hội hè, cúng lễ có đông người đến dự. Sơn Nam giải thích thai đố là một hình thức giải trí khá thú vị của người Nam Bộ trong các dịp cúng đình “nó là hình thức đố vui dễ học đã có từ đời xưa, tập cho ai nấy suy nghĩ nhanh chóng biết nhìn tổng quát sự vật” [5a; 76]. Ai có “liên tưởng” tốt thì dễ trả lời đúng. Phần thưởng vật chất cho người thắng cuộc đơn giản chỉ là chai xá xị hoặc vài cái bánh… quan trọng là giá trị tinh thần, trả lời đúng trước bao nhiêu người ở đình làng là một vinh dự to lớn. Sơn Nam rất hóm hỉnh khi đi tìm câu trả lời cho câu thai đố lớn nhất đời “họ có cưới nhau được không?” của các đôi thanh niên nam nữ. Nhà văn đề cập đến hình thức thai đố trong nhiều truyện như Tình bậu muốn thôi, Ngôi mộ chôn đứng, Câu thai đố…

Cải lương là loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp cao, có hát, nói, diễn xuất, hành động bao gồm: phần hát có ca cổ, các làn điệu lý; phần nói có nói theo lối kịch, nói theo lối hát; phần diễn xuất bao gồm diễn xuất tâm lý, diễn xuất cách điệu, diễn xuất hài; phần hành động có các hành động thực tế. Ra đời muộn hơn các loại hình nghệ thuật khác. Đây là một đóng góp lớn vào văn hóa của Nam Bộ, hình thành trên


8Có những câu thai đố dễ dành cho trẻ con như “Ví dầu cầu ván đóng đinh”, trẻ con có thể biết ngay đó là “cái bánh bò” vì cầu tre khó đi, nhiều người phải bò để giữ thăng bằng. Những câu khó hơn để cho người lớn như “Năm thằng vác hai cây sào/ Đuổi đàn trâu trắng chạy vào trong hang” (Xuất vật dụng: “đôi đũa”): Năm thằng là năm ngón tay, hai cây sào là đôi đũa, đàn trâu trắng vào trong hang là hình ảnh đưa cơm vào miệng. Một loại hình nghệ thuật rất được giới trẻ miền Nam yêu mến, ưa chuộng.


cơ sở dân ca Đồng Bằng Sông Cửu Long và nhạc tế lễ9 “sáng tạo ra một loại hình nghệ thuật mới là điều tất yếu vì đó là một nhu cầu của thời đại” [173; 164]. Sơn Nam viết trong Đất Gia Định – Bến Nghé xưa – Người Sài Gòn “Xem hát cải lương là một nhu cầu lớn; thích điện ảnh, nhưng đồng thời, mê cải lương”, ông giải thích cải lương là thành tựu của người Sài Gòn và người đồng bằng Nam Bộ vì “Cải lương không quá “trí tuệ” như kịch nói, không câu nệ ước lệ như hát bội” [44b; 481] nên người dân lao động dễ dàng tiếp nhận. Những truyện đề cập đến cải lương như Người tình của cô đào hát, Hội ngộ bến Tầm Dương, Ngày mưa đầu mùa, Anh hùng rơm, Con trích ré, Cậu Bảy Tiểu, Ông già xay lúa…

Nói thơ Vân Tiên10 tức là cách diễn xuất với giọng nói, nhịp điệu, sắc mặt có khác với thể thơ dùng để ngâm nga. Nói thơ Vân Tiên được xem là một dạng hát bội dân gian, không cần đào kép chuyên nghiệp. Là một loại hát kể mang tính chất ngâm ngợi, phù hợp với giọng thô của nam giới. Nội dung là truyện thơ Nôm nổi tiếng Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, người miền Nam rất coi trọng Lục vân Tiên, xem nó là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn về “đạo làm người” với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường

- đạo nghĩa. Phổ biến ở Bến Tre, phù hợp với đời sống nông nghiệp thời xưa của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nói hình thức “nói thơ Vân Tiên” là một sản phẩm văn nghệ dân gian độc đáo của đồng bằng sông Cửu Long, “bảo vật” phi vật thể đậm đà bản sắc văn hóa Nam Bộ. Cho đến nay, cả tiết điệu, âm vận, đến cung đoạn và cách thức ngâm nga, nghỉ ngừng,… vẫn được giữ gìn. Trong các truyện Miễu Bà Chúa Xứ, Nhứt phá sơn lâm, Người mù giăng câu... cũng đề cập Nói thơ Vân Tiên.

Sơn Nam dẫn dắt nhân vật của mình trải qua cuộc sống gian khó nơi rừng sâu nước độc, sương giăng, chướng khí, làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm... nhưng họ lúc nào cũng vui tươi, yêu đời... Những đêm trăng sáng, họ thường tụ tập, xúm xít đờn ca, hát vọng cổ, nói chuyện tiếu lâm... để quên đi những nỗi mệt nhọc.



9Theo Trần Văn Khê, “cải lương” nghĩa là sửa đổi cho tốt đẹp hơn. Cải lương được thể hiện qua sân khấu, đề tài, kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc có bài bản do tiếp thu từ sân khấu nghệ thuật phương Tây. Theo Vương Hồng Sển, cải lương ra đời vào khoảng 1916-1918 (16/11/1918 tuồng Gia Long tẩu quốc công diễn tại nhà hát Sài Gòn – đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải lương). Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên là những mảnh đất ươm mầm cho sân khấu cải lương. Tên gọi “cải lương” xuất hiện lần đầu tiên trên hiệu gánh hát Tân Thịnh vào năm 1920 và nhanh chóng được yêu thích ở Nam Bộ

10Nói thơ Vân Tiên được diễn đạt theo nhịp điệu không buông rơi đều đặc như hát bài chòi, hoặc hát sắc bùa mà luôn thay đổi từ khoan thai đến dồn dập. Hình thức này không đòi hỏi người nói phải biết rành câu chữ, sắp xếp theo lớp lang tuần tự mà chủ yếu là thuộc lòng và truyền miệng qua nhiều thế hệ. Giai điệu thường bắt đầu ở âm khu cao ở đầu điệp khúc rồi lên xuống giữa âm khu trung và âm khu trầm và chậm dần để kết thúc mỗi điệp khúc. Không sử dụng tiếng đệm, thỉnh thoảng mới thấy tiếng “mà” giặm vào, cũng rất hiếm tiếng “ầu ơ” chen ngang.


Ngoài các hình thức hát hò nêu trên, ta còn thấy có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa khác trong truyện Sơn Nam như là lối kể chuyện hài kiểu bác Ba Phi, hát tài tử, đua thuyền… Một số truyện viết về đô thị Sài Gòn có hình thức sinh hoạt văn hóa đa dạng hơn nhưng đã bị lai tạp nền văn minh phương Tây khá nhiều. Các hình thức sinh hoạt nghệ thuật cứ trở đi trở lại trong tác phẩm tạo nên nét đặc sắc riêng của Sơn Nam.

Văn hóa phi vật thể của vùng đất Nam Bộ là những phương diện văn hóa như văn hóa tín ngưỡng, văn hóa ứng xử, văn hóa nghệ thuật… Sơn Nam cung cấp cho người đọc một bức tranh sinh hoạt văn hóa của Nam Bộ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Những phong tục cũ và mới được dung hòa trên vùng đất mới giúp cho đời sống tinh thần của cư dân Nam Bộ ngày càng thêm phong phú và đa dạng.

Người đọc dễ dàng nhận thấy văn hóa Nam Bộ vừa mang sắc thái cội nguồn của văn hóa Trung Bộ, vừa có những nét riêng biệt do sự giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa khác nhau trên vùng đất mới. Đây chính là nền văn hóa sông nước – văn minh miệt vườn - văn minh lúa nước - được xem là trung tâm điểm của nền văn minh Nam Bộ. So với các tác giả thường xuyên viết về Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng (Tây Nam Bộ), Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Văn Bổn... (Đông Nam Bộ) thì tần suất xuất hiện viết về văn hóa Nam Bộ ở Sơn Nam là cao hơn cả. Hầu như không có tác phẩm nào của ông trong cả hai mảng văn chương và biên khảo không đầy ắp những chi tiết đề cập đến văn hóa Nam Bộ. Ông xứng đáng với danh xưng mà nhiều người đặt cho “Nhà văn miệt vườn” với nền “văn hóa sông nước”. Có thể thấy Sơn Nam rất gần với Nguyễn Tuân – nhà văn chuyên viết về văn hóa Bắc Bộ ở miền Bắc. Cả hai đã tạo thành một bức tranh văn hóa hoàn chỉnh của đất nước một thời.

Tiểu kết chương 3

Sơn Nam là nhà văn chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, ông đã dành cả cuộc đời viết về lịch sử Nam Bộ bằng văn chương, đặc biệt thời khẩn hoang vùng đất mới giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Những sáng tác của ông là những đóng góp đáng trân trọng đối với lịch sử trong đó nổi bật văn hóa, văn học Nam Bộ. Sự giàu có phong phú về vốn tri thức, trải nghiệm đời sống trong quan sát, khảo cứu được thể hiện qua nét phong cách uyên bác tài hoa trong miêu tả và tượng hình đất người, là điểm đặc sắc nổi bật của ngòi bút Sơn Nam: Phong cảnh thiên nhiên các vùng miền Tây Nam Bộ bao gồm những con sông, rừng tràm, sân chim, cánh đồng lúa hay đầm lầy… bí ẩn và đầy khắc nghiệt. Với bàn tay con người, bộ mặt thiên nhiên vùng đất đã dần dần thay đổi hình dạng: Thiên nhiên trù phú, hiền hoà, thơ mộng dần nổi lên

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022