Mô Hình Và Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam


Mục đích đó, người ta không thể đạt ngay tức khắc được; muốn thế cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, và vì phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản. Bởi vậy, Mác có nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội [132 - tr. 464].

Hai là, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng dân chủ XHCN gắn với việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ, nhà nước XHCN - là những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp cách mạng XHCN.

Từ đó, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển và cụ thể hoá việc mở rộng dân chủ bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp gắn với việc hoàn thiện nhà nước vô sản, trong Nhà nước và Cách mạng Lênin cho rằng: “giai cấp vô sản cần một nền dân chủ không phải như nền dân chủ hiện nay, không phải dân chủ tư sản mà là dân chủ khác.” [128 - tr. 321, 322].

Ba là, lực lượng cơ bản của cách mạng XHCN là liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

C.Mác, Ph.Ăngghen, rất đề cao tầm quan trọng của liên minh công - nông, xem đó như là nguyên tắc để giành và củng cố chuyên chính vô sản, trong tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp hai ông khẳng định:

Công nhân Pháp không thể tiến lên một bước nào và cũng không thể đụng đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân nằm giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản nổi dậy chống chế độ tư sản, chống sự thống trị của tư bản, chưa bị tiến trình của cách mạng


buộc phải đi theo những người vô sản, coi là đội tiền phong của mình. [15- tr. 26-27].

V.I.Lênin còn đề cập tới vai trò của tầng lớp trí thức trong cách mạng XHCN, mở rộng liên minh công - nông với tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Trong bài diễn văn Người ta lừa bịp nhân dân bằng những khẩu hiệu tự do và bình đẳng, V.I.Lênin viết: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức).” [132 - tr.452]. Người khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được.” [134

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 167 trang tài liệu này.

- tr.218]

Bốn là, một mặt cần phải biết kế thừa những giá trị nhân loại được tạo ra trong thời kỳ TBCN, mặt khác phải cảnh giác và đập tan âm mưu phục hồi “thiên đường đã mất” của giai cấp tư sản và bọn phản động chống CNXH. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô ta Mác khẳng định: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra.” [19 - tr. 33]. Trong Nội chiến ở Pháp, Mác nói: “cần phải cắt bỏ những cơ quan thuần túy áp bức của chính phủ cũ nhưng phải đoạt lấy những chức năng hợp lý của nó trong tay một chính quyền xưa nay vốn có tham vọng đứng trên cả xã hội, và đem giao cho những người đầy tớ có trách nhiệm của xã hội.” [17 - tr. 451].

Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - 5

V.I.Lênin đã nêu nhiều luận điểm về kế thừa thành tựu, giá trị quý báu mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, nhất là trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP). Tiêu biểu là thực hiện


các nguyên tắc của kinh tế thị trường, học tập chuyên gia tư sản, tiếp thu các thành tựu quản lý, khoa học thông qua chế độ tô nhượng và nhất là tạo điều kiện cho nông dân cá thể làm ăn…Người cảnh báo trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực rằng: “Tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của CNTB, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó.” [137- tr. 267]. Với những quan điểm sáng tạo, chỉ trong ba năm thực hiện NEP (1921-1924) nước Nga Xô Viết đã thoát khỏi khủng hoảng, chính quyền Xô Viết non trẻ được giữ vững, tạo điều kiện để Liên Xô phát triển về sau trên con đường đi lên CNXH.

Năm là, con đường đi lên CNXH vừa có tính phổ biến vừa mang nét đặc thù, các dân tộc tiến lên CNXH không hoàn toàn giống nhau. Về ý nghĩa phương pháp luận thì, CNXH tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản nhưng, việc xác định thời điểm và biện pháp cách mạng… lại tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi nước, trong tác phẩm Về một sự biếm họa chủ nghĩa Mác và về Chủ nghĩa kinh tế đế quốc V.I.Lênin khẳng định:

Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng ...không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa ra đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội. [126 - tr. 160]

Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trong bài viết Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.” [60 - tr.314] “Chỉ có chủ nghĩa


xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.” [61 - tr128].

Tiến lên CNXH là tất yếu lịch sử, nhưng bằng con đường nào để xây dựng chế độ đó ở Việt Nam - một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, dân trí thấp, bị chiến tranh tàn phá… Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh là: bước đi và cách làm phải dần dần, từng bước một, thận trọng và vững chắc, phải đảm bảo đúng quy luật và hợp lòng dân, có như vậy mới có thể tồn tại được trên cơ sở chắc chắn của chính mình. Nếu chủ quan nóng vội, muốn tiến nhanh lên CNXH, CNCS, đốt cháy giai đoạn sớm muộn cũng sẽ trả giá đắt và như vậy là kéo dài thêm đường đi đến CNXH, cho nên trong bài Nói chuyện với cán bộ công nhân nhà máy dệt Nam Định, Người chỉ rõ: “tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải muốn là tức khắc có.” [59- tr.338].

Từ đó, trong các tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác thảo những nét cơ bản về một xã hội tương lai. Tùy từng bối cảnh cụ thể, Người nói về CNXH ở Việt Nam rất dễ hiểu, giản dị, sâu sắc nhưng rất gần gũi với đời thường, phù hợp với dân trí Việt Nam lúc đó mà ai cũng có thể hiểu và cảm nhận được, nhưng điều quan trọng là, xuất phát từ cuộc sống hiện thực Người nêu ra những chuẩn mực của xã hội tương lai. Trong tác phẩm Ba mươi năm hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.” [61- tr.17]. “Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội.” [61- tr.591].

Như vậy, CNXH theo Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong bài nói chuyện tại Đại hội Đảng bộ Hà Nội ngày 01-02-1961, Hồ Chí Minh cho rằng: “nói một cách giản đơn và dễ hiểu là không ngừng nâng cao đời sống nhân dân…trước hết là nhân dân lao động.” [61- tr.271]. Trong tác phẩm Ba mươi năm hoạt động của


Đảng Hồ Chí Minh cho rằng nhiệm vụ lịch sử của chúng ta là: “phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.” [61-tr.13].

Hồ Chí Minh còn để lại mẫu mực luận chiến trong nhiều tác phẩm mà điển hình là “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Những giá trị tư tưởng và phương pháp luận ấy cần được tiếp tục kế thừa và phát triển trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay.

2.1.2. Mô hình và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

2.1.2.1. Mô hình CNXH ở Việt Nam

Mô hình CNXH ở Việt Nam là một phạm trù của nhận thức lý luận nhằm khái quát về những đặc điểm, đặc trưng…của CNXH ở Việt Nam. Mô hình ấy đóng vai trò là “bản vẽ thiết kế” xã hội, là sự hoạch định đường lối, chủ trương, biện pháp…để xây dựng CNXH hiện thực. Tính đúng của nó, theo đó, trực tiếp ảnh hưởng nhiều mặt đến quá trình thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Về thuật ngữ, “mô hình CNXH ở Việt Nam” có 2 quan niệm:

Quan niệm thứ nhất, theo nghĩa hẹp, mô hình được hiểu là quan niệm về đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, là xã hội XHCN mà toàn Đảng, toàn dân ta hướng tới xây dựng. Quan niệm này phân biệt với khái niệm “con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam” - thường được hiểu là các biện pháp, lực lượng, cách thức, nguồn lực… để xây dựng CNXH. Theo nghĩa hẹp này, người ta phân biệt lý luận về CNXH theo hai vấn đề lớn nhất vừa mang tính bản thể luận, vừa mang tính phương pháp luận, rằng: CNXH ở Việt Nam là gì? và làm cách nào để xây dựng CNXH ở Việt Nam?

Quan niệm thứ hai, theo nghĩa rộng - cũng là một quan niệm khá thịnh

hành và được chấp nhận, đó là coi “mô hình CNXH ở Việt Nam” bao gồm


cả hai phương diện trên. Nó vừa phản ánh quan niệm về CNXH và cả cách thức xây dựng nó ở Việt Nam. Tiêu biểu là một quan niệm: “Như vậy, xác định đúng phương hướng cách mạng là rất cơ bản, nhưng vẫn chưa đủ để xây dựng được CNXH. Còn phải cụ thể hoá thành “mô hình” (bao gồm cơ cấu, cơ chế, hình thức, bước đi...) và biết điều chỉnh, thay đổi mô hình khi điều kiện thực tế thay đổi và đòi hỏi.” [7 - tr.16]

Trong luận án này, khái niệm mô hình CNXH ở Việt Nam được sử dụng theo nghĩa hẹp. Nó là sự trả lời trực tiếp cho câu hỏi “chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?”

Văn kiện Đại hội VII, Đảng cộng sản Việt Nam tổng kết 5 năm đầu đổi mới và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề “chủ nghĩa xã hội là gì?” lần đầu tiên đã đư ợc đề cập một cách có hệ thống với việc xác định sáu đặc trưng của xã hội XHCN. Sáu đặc trưng đó là những dấu hiệu nhận biết bản chất, mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bao gồm:

“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.” [37 - tr.180-181]


Quan niệm đó đã phản ánh nhận thức lý luận của Đảng ta về CNXH ở Việt Nam thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới.

Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, quan niệm về CNXH ở Việt Nam đã đư ợc Đảng ta bổ sung và phát triển trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” - 2011. Có thể chỉ ra những nét tiêu biểu như sau:

Thứ nhất, sáu đặc trưng của Cương lĩnh 1991 vẫn được tiếp tục khẳng định những nội dung cơ bản và bổ sung thêm hai đặc trưng mới:

Một là về mục tiêu tổng quát và là mục đích hướng tới là “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, đặc trưng về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo “Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.” [111 - tr.9] Không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là bản chất, mục tiêu và là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam .

Thứ hai, trong xã hội XHCN ở Việt Nam địa vị là chủ và làm chủ thuộc về nhân dân. Họ là đông đảo quần chúng mà cốt lõi là giai cấp công nhân - giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đã được giải phóng và trở thành chủ nhân của chế độ xã hội mới.

Thứ ba, đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đây là sự thể hiện quy luật phổ biến về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nó cũng là sự sửa


chữa khuyết điểm duy ý chí của thời kỳ trước đổi mới, rằng: “quan hệ sản xuất có thể đi trước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển”.

Thứ tư, bản chất, mục tiêu và các đặc trưng của xã hội XHCN mà chúng ta hướng tới là một chỉnh thể toàn diện không chỉ kinh tế, chính trị - xã hội mà còn bao gồm cả văn hóa - con người. Phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội là định hướng lớn của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Nền văn hóa đó là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên nền tảng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu các giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh lành mạnh vì lợi ích và phẩm giá của con người. Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, xây dựng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

Như vậy, nhận thức về mô hình đi lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình không ngừng tìm tòi, hoàn thiện quan niệm về những đặc trưng của CNXH ở Việt Nam; nó được hình thành từ thực tiễn Việt Nam kết hợp với lý luận CNXH khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh. Đó là một quá trình đổi mới toàn diện nhận thức của toàn Đảng, toàn dân ta trong thực tiễn xây dựng CNXH và bảo vệ lý luận CNXH ở Việt Nam.

Sau 25 năm đổi mới tư duy về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam, đặc trưng cơ bản của mô hình CNXH ở Việt Nam đã được xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc

Xem tất cả 167 trang.

Ngày đăng: 04/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí