sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.” [41 - tr.70]
2.1.2.2. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thực chất là một phạm trù của lý luận về CNXH ở Việt Nam, thường được sử dụng với hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, là các giai đoạn, bước đi, cách thức, biện pháp, công cụ, lực lượng, động lực, nguồn lực, các quan hệ cơ bản… quy định lộ trình, tốc độ và hướng phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Cụ thể hơn là nó trả lời cho câu hỏi: “làm thế nào và bằng cách nào để xây dựng CNXH ở Việt Nam” [111 - tr.3]
Nghĩa thứ hai, cũng có người cho rằng khái niệm con đường là tổng
thể các quan niệm cả về mô hình, mục tiêu và cả về quá trình, biện pháp đi lên CNXH ở Việt Nam. Quan niệm này dựa trên cơ sở của lập luận rằng, chỉ có thể tách rời hai vấn đề đó trong tư duy chứ còn trên thực tiễn, khó có thể rạch ròi, vì mô hình quy định biện pháp, còn biện pháp lại tác động trở lại mô hình ở mức là hiện thực hóa và trong chừng mức nhất định, có thể điều chỉnh tư duy - quan niệm về mô hình. Quan niệm này hợp lý về thực tế, nhưng trong tư duy lý luận thì nó chưa giúp cho rạch ròi và triệt để, theo Mác “có nghĩa là tìm đến gốc rễ của sự vật.”
Luận án này sử dụng khái niệm con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo nghĩa thứ nhất, với ý nghĩa là những bước đi, biện pháp, công cụ, các nguồn lực, các lực lượng…để xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Cương lĩnh năm 1991 đã xác đ ịnh: “phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực,
tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Các Công Trình Phản Ánh Về Cuộc Đấu Tranh Chống Các Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam.
- Về Các Tài Liệu Chống Chủ Nghĩa Xã Hội, Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Chủ Nghĩa Xã Hội
- Mô Hình Và Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam
- Những Tiêu Chí Cơ Bản Đánh Giá Hiệu Quả Của Việc Phê Phán Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam.
- Nhận Dạng Những Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam Hiện Nay.
- Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - 9
Xem toàn bộ 167 trang tài liệu này.
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.” [30 - tr.8]
Trong nhận thức lý luận ở Việt Nam hiện nay, phạm trù con đường đi lên CNXH phản ánh những chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản Việt Nam để xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nhận thức này là cả một quá trình dần phát triển và hoàn thiện mà Văn kiện các Đại hội Đảng là những dấu mốc lớn đánh dấu sự trưởng thành. Các biện pháp ấy, đầu tiên được Cương lĩnh 1991 cụ thể hóa thành những nhiệm vụ và phương hướng của cách mạng Việt Nam: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
cần xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo…phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại…nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội…, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.” [30 - tr.9]
Có thể nói, đây là nhận thức đầu tiên về con đường xây dựng xã hội XHCN ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là một kết cấu tổng thể mà xã hội XHCN của Việt Nam cần đạt đến, bao gồm sự thống nhất cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng; là sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất; là sự thể hiện bản chất XHCN ở quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Tổng kết đầu tiên về nhận thức này là nhận định của Đại hội IX: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.” [33 - tr.83] Đại hội IX đã chỉ ra cụ thể tính chất phát triển rút ngắn của Việt Nam, vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và những
điểm cần kế thừa, tiếp thu văn minh nhân loại để xây dựng CNXH: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng, tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.” [33 - tr.81]
Một số quan niệm giáo điều, siêu hình trước đây cũng đã d ần được khắc phục. Chẳng hạn, đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với giai đoạn trước mắt; chỉ nhấn mạnh quan hệ sản xuất xem nhẹ vai trò lực lượng sản xuất; đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản; đối lập siêu hình giữa CNTB với CNXH...
Cách thức bỏ qua chế độ TBCN được quan niệm rõ ràng hơn: Về nguyên tắc, chúng ta không phủ nhận sạch trơn những giá trị mà nhân loại đạt được dưới chế độ TBCN, cần xác định rõ cái gì cần bỏ qua, cái gì cần tiếp thu, kế thừa, bổ sung, chọn lọc. Thực chất của việc bỏ qua chế độ TBCN là không chấp nhận địa vị thống trị của quan hệ sản xuất TBCN và sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản trong xã hội. Bên cạnh đó, cần tiếp thu những thành tựu mà văn minh nhân loại đạt được trong CNTB để giải quyết vấn đề căn bản của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam: phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Theo đó, chúng ta cần phải tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ, mặt tích cực của cơ chế thị trường, kinh nghiệm quản lý xã hội …
Từ nhận thức lý luận và những thành tựu thực tiễn đạt được sau 25 năm đổi mới, “Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”, Văn kiện Đại hội XI (2011) đã nêu lên những nét chủ
yếu về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thông qua 8 phương hướng xây dựng CNXH như sau:
“Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.” [41 - tr.72]
Hiện nay, con đường ấy đã được làm rõ trên những nét cơ bản, song để thật sự sáng tỏ và trở thành công cụ đắc lực để xây dựng CNXH ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước cùng nhân dân ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trên cả hai phương diện là “xây và chống”. Trong bài phát biểu tại Cu Ba tháng 4 năm 2012 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định: “Vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.” [111 - tr.3]
2.1.3. Bảo vệ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
2.1.3.1 Những yêu cầu cơ bản của việc phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Từ thực tiễn và lý luận về cuộc đấu tranh, phê phán các quan điểm thù địch, sai trái, để bảo vệ con đường đi lên CNXH ở nước ta, có thể khái quát thành những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, tính khoa học, được định hướng và có tổ chức là yêu cầu hàng đầu.
Tính khoa học được hiểu là việc sử dụng những nguyên lý, quan điểm cơ bản mang tính chân lý bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phản bác lại những luận điểm xuyên tạc, phủ nhận của kẻ thù tư tưởng. Sức sống của CNXH khoa học trước tiên bắt nguồn từ bản chất khoa học, cách mạng của nó, và đây cũng là luận cứ lý luận hàng đầu để chống lại các quan điểm sai trái.
Khoa học là việc sử dụng những luận cứ lý luận và thực tiễn, là cách lập luận chặt chẽ, xác đáng có sức thuyết phục cao trong luận chiến chống lại các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Là việc phân định rõ lập trường, lợi ích giai cấp tư sản của các quan điểm sai trái. Việc vạch ra bản chất và thực chất của các quan điểm sai trái, các luận điệu chống phá, chỉ rõ mưu toan thâm độc, những hành động chống phá, ý đồ xấu xa của các lực lượng thù địch trong việc gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là rất cần thiết. “Lẽ phải thuộc về chúng ta” cho nên khách quan, công bằng và biện chứng là những phẩm chất của tư duy khoa học trong luận chiến. Theo đó, biểu hiện hàng đầu của tính khoa học trong việc phê phán này là sự trung thành với nguyên lý và phương pháp luận, nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Ở phương diện này, một trong những biểu
hiện quan trọng của tính khoa học chính là giữ vững lập trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù tư tưởng.
Đây là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân tộc ta nhằm bảo vệ độc lập về chính trị và thống nhất ý chí toàn dân tộc. Cuộc đấu tranh này là gay go và quyết liệt vì phải đương đầu với những kẻ thù thâm độc và lắm mưu mô, thủ đoạn. Vì vậy, muốn chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải nắm rõ và vững vàng về định hướng tư tưởng và có tổ chức khi hành động.
Thứ hai, việc phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam phải vừa mang tính kịp thời vừa mang tính thường xuyên.
Tính chất nguy hiểm của các quan điểm sai trái khiến chúng ta phải thường xuyên, liên tục đương đầu với các cuộc “giao phong” về tư tưởng và không ngừng nâng cao cảnh giác để kịp thời phản bác. Kịp thời vạch mặt các cá nhân, tổ chức… chống phá sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta, xuyên tạc quan điểm chủ trương, đường lối nhằm thực hiện âm mưu chia rẽ đoàn kết nội bộ nước ta.
Kịp thời uốn nắn những nhận thức mơ hồ, sai lệch có thể mới phát sinh đâu đó trong nội bộ cũng là điều cần thiết để chống “tự diễn biến”. Chủ động quán xuyến hoạt động giáo dục lý luận chính trị trong toàn xã hội, kịp thời nắm bắt và xử lý các tình huống phức tạp nảy sinh là yêu cầu cần thiết. Kịp thời phê phán những tiêu cực, cản trở mới nảy sinh trong quá trình xây dựng phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Kịp thời cung cấp thông tin để người dân nhận thức sâu sắc rằng, đạt được những thành tựu như hiện nay là tổng hợp của nhiều yếu tố và do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quyết định nhất là do giữ vững vai trò lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Hiện nay đất nước ta đang đứng trước những vận hội, thời cơ lớn, đồng thời đang đối mặt với những thách thức nguy cơ với CNXH. Thực tế ấy đang diễn biến, tác động với nhau rất đa dạng và phức
tạp, cho nên cần có sự thống nhất trong hành động chống lại mưu toan chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam XHCN.
Kịp thời đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước. Kịp thời bổ sung, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận làm công tác tư tưởng lý luận. Kịp thời cổ vũ, động viên nêu gương điển hình đối với những việc làm tốt, khích lệ tính tích cực xã hội trong xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chế độ.
Kịp thời đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm từng bước hiện đại hóa các phương tiện phục vụ cuộc đấu tranh này, có như vậy chúng ta mới tăng cường khả năng kiểm soát những hoạt động tán phát, hạn chế tối đa việc lây lan, nhân bản những thông tin xấu, phải kịp thời ngăn chặn các tài liệu phản động chống phá chế độ từ bên ngoài truyền vào nước ta...
Thứ ba, việc phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam vừa có tính chuyên nghiệp - chuyên môn, vừa có tính nhân dân - đại chúng.
Kẻ thù tư tưởng của chúng ta đã và đang sử dụng một đội ngũ chuyên nghiệp, sử dụng mọi thành tựu khoa học và công nghệ để xuyên tạc, chống phá con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Theo nguyên tắc cân bằng lực lượng, chúng ta cũng phải có một lực lượng chuyên nghiệp, tinh nhuệ để đối trọng, khắc chế và vô hiệu hóa các thủ đoạn, âm mưu. Tính chuyên nghiệp - chuyên môn của đội ngũ này thể hiện ở sự hiểu biết vững vàng, sâu sắc về lý luận Mác - Lênin, thành tựu khoa học xã hội hiện đại, nắm chắc bản chất giai cấp, mục tiêu tư tưởng - chính trị của các luận điệu phủ nhận CNXH cùng các thủ đoạn của chúng. Ngoài ra, đội ngũ này còn được trang bị các công cụ cần thiết và hiện đại để làm phương tiện cho hoạt động của mình.
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn, một trong những bài học đó là “sự nghiệp
cách mạng là của nhân dân”. Quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN phải “lấy dân làm gốc” đoàn kết tập hợp được mọi lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng, huy động được sức mạnh to lớn nhất của toàn dân tộc. Điều đó cũng phù hợp với cuộc đấu tranh bảo vệ con đường đi lên CNXH của nước ta hiện nay. Để làm được điều này, cần tạo ra dư luận xã hội rộng rãi lên án các hành vi và tư tưởng phá hoại chủ trương, đường lối chính sách và pháp luật, phê phán công khai những quan điểm sai trái. Việc làm rõ những thành quả cách mạng, tính ưu việt của CNXH hiện thực cũng là một hướng cần quan tâm. Khi người ta hiểu CNXH mang lại lợi ích thiết thực, trực tiếp cho mỗi người dân thì người ta sẽ bảo vệ nó bằng nhiều biện pháp phong phú, sáng tạo và tự hình thành một “hệ miễn dịch” xã hội trước những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù.
Thứ tư, việc phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự kết hợp đấu tranh trên nhiều phương diện, bằng nhiều phương tiện.
Do tính đa dạng, phong phú của xã hội thông tin, nhiều thông tin không chỉ đơn thuần liên quan đến một lĩnh vực, mà là tổng hợp cả kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Người sử dụng thông tin đó lại không đồng nhất với nhau về học vấn, cách hiểu, cách vận dụng khác nhau. Chính tính nhiều vẻ, nhiều chiều của bản thân những nội dung thông tin, của các quan điểm sai trái mà trong nhiều tình huống, nó không chỉ dừng lại ở những sai phạm nhất thời, nó không thuần túy dừng ở cuộc đấu tranh trong phạm vi tư tưởng mà gắn liền với nhiều vấn đề chính trị - kinh tế, xã hội tổng hợp và có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng lâu dài.
Xử lý một vấn đề chính trị tư tưởng như thế, đòi hỏi phải có cơ quan có thẩm quyền đứng ra tổ chức, xử lý và cũng rất cần sự chung tay góp sức, phối hợp của nhiều kênh khác nhau, từ tuyên truyền giáo dục thuyết phục (đối với những người có sai phạm do nhận thức sai), xử lý nội bộ trong cộng đồng đến