Biện Pháp Phát Triển Kỹ Năng Giao Tiếp Cho Học Sinh Ptdt Nội Trú


Phạm vi giao tiếp càng mở rộng, nội dung giao tiếp càng phong phú thì tâm lý, ý thức của cá nhân càng có điều kiện phát triển. Mọi trở ngại trong giao tiếp thông thường đều có thể là nguyên nhân gây ra sự trì trệ về tâm lý, sự phiến diện về nhân cách hoặc là căn nguyên của bệnh tâm thần.

Như vậy, không có giao tiếp thì không có các quan hệ xã hội. Giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển xã hội, nó đặc trưng cho tâm lý người. Vì vậy, có thể khẳng định giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lý người, giao tiếp là điều kiện tồn tại của mỗi cá nhân và của xã hội loài người.

Hiện nay với xu thế toàn cầu hoá, yêu cầu của xã hội đặt ra cho mỗi con người, cho mỗi quốc gia và cho cộng đồng các dân tộc ngày càng cao. Con người phải có khả năng thích ứng, khả năng hợp tác để tồn tại và phát triển. Việc nâng cao năng lực giao tiếp, năng lực sống cho mỗi cá nhân trở thành một điều kiện tất yếu. Qua đó, mỗi cá nhân có thể tiếp thu, lĩnh hội những tinh hoa văn hoá của nhân loại, những tri thức của loài người một cách có chọn lọc và hệ thống để phát triển bản thân và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.

1.2.2. Kỹ năng giao tiếp

1.2.2.1. Khái niệm kỹ năng

Vấn đề kỹ năng (KN) được nhiều nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học nghiên cứu và hiểu theo nhiều góc độ khác nhau nhưng đều đề cập tới những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất: KN bao giờ cũng gắn liền với việc thực hiện hành động, hay hoạt động. Không có KN chung chung, trừu tượng tách rời hành động, KN không có đối tượng riêng. Đối tượng của nó là đối tượng của hành động. Do đó KN phải được hiểu trước hết là mặt kỹ thuật của hành động, thao tác hay hoạt động nhất định.


Thứ hai: Một khi KN hành động đã được hình thành thì KN vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính mục đích. Do vậy tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hình thành, phát triển của KN là tính đúng đắn, sự thành thạo và tính sáng tạo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Thứ ba: Con đường hình thành KN là con đường thực hiện hành động hay hoạt động. Bởi vì mỗi hành động bao giờ cũng có mục đích khách quan và lôgic thao tác dẫn đến mục đích đó. Lôgic thao tác làm nên mặt KN của hành động. Việc hình thành KN hành động là cá nhân phải biết triển khai thao tác theo đúng lôgic phù hợp với mục đích khách quan. Ta có thể đánh giá học sinh biết giao tiếp khi các em linh hoạt, mềm dẻo triển khai hành động giao tiếp trong mọi hoàn cảnh của hoạt động.

Trên cơ sở phân tích những điểm cơ bản của KN, chúng tôi quan niệm: “Kỹ năng là khả năng triển khai hành động một cách đúng đắn, linh hoạt mềm dẻo trong hoạt động thực tiễn, dựa trên cơ sở hiểu sâu sắc và đầy đủ hành động đó”. Muốn có được KN đạt ở mức độ phát triển cao, cá nhân phải có quá trình học tập và củng cố bằng tập luyện hành động trong thực tiễn.

Phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang - 4

1.2.2.2. Khái niệm kỹ năng giao tiếp

Vấn đề kỹ năng giao tiếp (KNGT) chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện. Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về KNGT, về sự vận dụng chúng vào hoạt động giáo dục và dạy học.

* Quan niệm thứ nhất: Quan niệm về KNGT ở mức độ khái quát. Coi KNGT là năng lực của con người biểu hiện trong quá trình giao tiếp. Đại diện cho quan niệm này là các tác giả. Hoàng Anh, V.P. Dakharov, Ngô Công Hoàn, Vũ Kim Thanh....v.v. Theo V.P. Dakharov “KNGT là khả năng giao tiếp cụ thể của mỗi cá nhân thể hiện trong quá trình giao tiếp”. Ngô Công Hoàn: KNGT là khả năng tri giác hiểu được những biểu hiện bên ngoài cũng như diễn biến bên trong của các hiện tượng, trạng thái, phẩm chất tâm lý của


đối tượng giao tiếp. Trên cơ sở đó biết tổ chức điều khiển quá trình giao tiếp từ lúc bắt đầu, diễn biến và kết thúc giao tiếp đúng lúc nhằm đạt kết quả trong quá trình giao tiếp [23]. Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: KNGT là khả năng chủ thể thực hiện có kết quả hành động giao tiếp phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của giao tiếp. PGS.TS Nguyễn Thị Tính: KNGT là khả năng giao tiếp thành công và hiệu quả trước một hay nhiều đối tượng tiếp xúc của chủ thể giao tiếp. Nói một cách khác, KNGT là toàn bộ những thao tác, cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ phối hợp hài hoà, hợp lý của cá nhân với cá nhân hay cá nhân với một nhóm xã hội nhằm điều khiển, điều chỉnh đối tượng giao tiếp để thực hiện mục tiêu của chủ thể giao tiếp.

* Quan niệm thứ hai: Quan niệm KNGT ở mức độ cụ thể. Coi KNGT là những kỹ năng cụ thể biểu hiện trong quá trình giao tiếp. Các tác giả của quan niệm này là: N.V. Savin, F.N. Gônôbôlin, A.A. Lêônchiev, V.A. Cânclic....v.v. Chẳng hạn: N.V. Savin: “Năng lực giao tiếp là năng lực thiết lập mối quan hệ đúng đắn với học sinh và tổ chức tốt mối quan hệ này phục vụ cho giáo dục”. F. N. Gônôbôlin: “Năng lực giao tiếp chính là năng lực nhạy cảm, là năng lực chú ý tới học sinh, để gần học sinh, có giao tiếp với học sinh, có chú ý tới đặc điểm lứa tuổi của học sinh”.

Các quan niệm về KNGT tuy có những nét khác nhau nhưng đều có những nội dung cơ bản sau đây:

- KNGT là năng lực đặc thù của con người. Kỹ năng này không tự nhiên mà có, nó chỉ hình thành và phát triển trong quá trình giao tiếp. KNGT phải được xem xét như một đặc điểm, một mức độ của hành động giao tiếp, nó luôn gắn liền với hành động giao tiếp.

- KNGT có quan hệ chặt chẽ với tri thức và kỹ xảo giao tiếp. Tri thức giao tiếp là cơ sở, là nền tảng để hình thành và phát triển KNGT.


- Nét đặc trưng của KNGT là tính mục đích, tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính sáng tạo. Nhờ đó mà con người có những thành công trong các tình huống giao tiếp khác nhau.

Như vậy, ta thấy bản chất của KNGT là sự linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo khi vận dụng những tri thức, kỹ xảo giao tiếp vào các tình huống giao tiếp khác nhau. KNGT hình thành chủ yếu bằng con đường hành động, nhằm tích luỹ vốn sống, vốn kinh nghiệm, làm phong phú tri thức và rèn luyện các thói quen cần thiết trong giao tiếp.

Từ sự phân tích những nội dung cơ bản cần phải có trong KNGT, chúng tôi khái quát về khái niệm KNGT như sau: “KNGT là khả năng vận dụng những kiến thức thu được và những kỹ xảo có được vào những tình huống khác nhau của quá trình giao tiếp để đạt mục đích đề ra”.

1.2.2.3. Phân loại kỹ năng giao tiếp

Hiện nay, còn nhiều quan niệm khác nhau về sự phân loại các KNGT. Chẳng hạn: A.A. Lêônchiev chia thành 8 KNGT (KN điều khiển hành vi bản thân; KN quan sát; KN dự đoán nét mặt người khác; KN kiến tạo sự tiếp xúc; KN giao tiếp ngôn ngữ (biết nói một cách tối ưu); KN đọc, hiểu, mô hình hoá nhân cách học sinh). Căn cứ vào cấu trúc của quá trình giao tiếp, V.A. Kancalic chia thành các KN (KN định hướng giao tiếp; KN tạo bầu không khí tiền giao tiếp; KN thăm dò đối tượng giao tiếp; KN giao tiếp ngôn từ). A.T. Curbanôva và F.M.R.akhmatulina chia thành các KN (KN nhìn thấy, nghe được các trạng thái của người giao tiếp; KN tiếp xúc, hiểu biết lẫn nhau trong giao tiếp; KN tổ chức, điều khiển quá trình giao tiếp). V.P. Dakharov dựa vào trật tự các bước tiến hành của một pha giao tiếp chia thành các KN (KN “Tiếp xúc, thiết lập mối quan hệ giao tiếp” - KN1; KN “Biết cân bằng nhu cầu của cá nhân và đối tượng giao tiếp”- KN2; KN “Nghe và biết lắng nghe đối tượng giao tiếp” – KN3; KN “Tự chủ cảm xúc hành vi” - KN4; KN “Tự kiềm chế và


kiểm tra đối tượng giao tiếp”- KN5; KN “Diễn đạt ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu” - KN6; KN “Linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp” - KN7; KN “Thuyết phục đối tượng giao tiếp”- KN8; KN “Chủ động điều khiển quá trình giao tiếp” - KN9; KN “ Sự nhạy cảm trong giao tiếp” - KN10. Ngoài ra còn một số cách phân loại các kỹ năng giao tiếp khác.

Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng cách phân loại KNGT của V.P. Dakharôv. Bởi cách phân loại này tương đối rõ ràng và giúp chúng tôi nghiên cứu cụ thể các KNGT của học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang được biểu hiện trong hoạt động học tập cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.

1.2.3. Phát triển kỹ năng giao tiếp

Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự phát triển là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc, hết mỗi chu kỳ sự vật lập lại quá trình đó nhưng ở cấp độ cao hơn.

Phát triển KNGT cho người học là qúa trình giúp người học tích luỹ, trau dồi và huy động vốn tri thức, KN, kỹ xảo đã có vào những tình huống giao tiếp cụ thể nhằm đạt mục đích đề ra, là quá trình nâng cao năng lực thực hiện các hành động, hoạt động một cách linh hoạt, hiệu quả, sáng tạo trong giao tiếp. Một người có KNGT thường có những biểu hiện cơ bản sau:

- Có tri thức về hành động, nội dung của KNGT .

- Vận dụng linh hoạt, sáng tạo những tri thức, hiểu biết và KN, kỹ xảo đã có vào hành động trong những điều kiện nhất định hay cách thức hành động.

- Đạt được kết quả theo mục đích đề ra.



đổi.

- Có thể thực hiện có kết quả hành động trong những điều kiện đã thay


Để rèn luyện và phát triển KNGT cho học sinh các trường phổ thông,

học sinh cần phải nắm được hệ thống các KNGT, hiểu sâu sắc, đúng đắn vai trò quan trọng của từng KNGT trong hoạt động học tập cũng như trong đời sống xã hội. Điều quan trọng là biết rèn luyện các KNGT dựa trên cơ sở khoa học, vận dụng lý thuyết vào hành động để hình thành kỹ năng, kỹ xảo, đặc biệt tránh được tình trạng phát triển và rèn luyện kỹ năng theo kiểu “thử và sai”, hoặc rèn luyện theo kiểu không có kế hoạch, sa vào tình trạng kinh nghiệm chủ nghĩa, làm mất khả năng độc lập, sáng tạo của bản thân.

1.2.4.. Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh PTDT Nội trú

Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Biện pháp là sự phối hợp các yếu tố khác nhau trong hoạt động như kỹ thuật, phương tiện, công cụ, tình huống, môi trường, thời gian, công nghệ, các yếu tố tâm lý, xã hội và con người…v.v. Biện pháp là cấu trúc vĩ mô của phương pháp nhưng một biện pháp có thể tồn tại trong nhiều phương pháp.

Biện pháp phát triển KNGT cho học sinh thực chất là những cách làm có kế hoạch của giáo viên trên cơ sở sử dụng các yếu tố kỹ thuật, các phương tiện, đưa học sinh vào những tình huống, vào môi trường giả định để người học tự giải quyết các vấn đề đặt ra theo ý đồ của nhà giáo dục. Trên cơ sở đó, người học huy động vốn hiểu biết, tri thức, KN, kỹ xảo đã có để phát triển khả năng giao tiếp của bản thân.

Học sinh PTDT Nội trú là con em của đồng bào dân tộc ít người sống chủ yếu ở các làng bản núi rừng, quanh những dòng sông, con suối. Các em hầu như không biết nói dối, rất thật thà, chất phát. Mọi điều thầy cô, người lớn nói các em đều cho là đúng, là chân lý. Chính điều này làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình học tập và giao tiếp của các em. Khi phát triển KNGT


cho học sinh PTDT Nội trú phải gắn với hoàn cảnh sống, với những hành động cụ thể, trực tiếp, những ấn tượng trực quan như màu sắc, âm thanh, ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng mẹ đẻ…v.v.

1.3. Một số vấn đề về phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh PTDT Nội trú hiện nay

1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh PTDT Nội trú ( bậc THPT )

Học sinh các trường PTDT Nội trú bậc THPT đều là người dân tộc thiểu số. Lứa tuổi này đã trưởng thành về mặt thể lực. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng, hoạt động của não đã đạt tới mức hoàn thiện như người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại, điều đó tạo tiền đề cần thiết cho hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập, rèn luyện. Năng lực nhận thức của các em được tăng lên rõ rệt, khả năng tư duy trừu tượng, óc tưởng tượng, sáng tạo, ngôn ngữ… có biểu hiện phát triển mạnh.

Cũng như học sinh THPT nói chung, học sinh PTDT Nội trú sự phát triển nhân cách đã tương đối ổn định. Cụ thể:

- Về hoạt động nhận thức: Nhận thức cảm tính của học sinh PTDT Nội trú khá tốt, cảm giác, tri giác có những nét độc đáo. Trong hoạt động học tập các em thường trung thực, không giả dối. Thích học theo những tấm gương tốt bên cạnh mình, nhất là thầy cô giáo mà các em yêu quý. Đây là một đặc điểm quan trọng giúp nhà giáo dục tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh hiệu quả, sát đối tượng. Dùng “người thực - việc thực” để giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, còn một số hạn chế như thói quen lao động trí óc không bền, khả năng tư duy trừu tượng – lôgic chưa phong phú, sâu sắc. Các em suy nghĩ giản đơn một chiều, ngại đi vào những vấn đề rắc rối, phức tạp, dễ tin người khác…v.v.


- Tính trung thực, thẳng thắn, mộc mạc, dũng cảm, yêu ghét rõ ràng được coi là một đặc điểm nổi bật trong đời sống tình cảm ở học sinh PTDT Nội trú. Các em rất coi trọng tình thầy trò, tình bạn bè, nhất là những người bạn “tồng”, những bạn ở cùng phòng, cùng lớp hoặc nhà ở cùng bản làng…v.v. Tình cảm của các em rất chân thành, bền vững, ít vụ lợi, khi quan tâm đến ai các em thường thể hiện bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể hơn là bằng lời nói. Nhiều em còn rụt rè trong biểu lộ tình cảm, trong tiếp xúc với người khác, các em chỉ mạnh dạn khi giao tiếp với những người thân quen. Nét tâm lý khép kín này gây trở ngại cho việc thiết lập các mối quan hệ trong giao tiếp, ứng xử.

- Về nhu cầu: Nhu cầu học tập, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu tự khẳng định mình… đều phát triển cao hơn so với lứa tuổi thiếu niên. Các em rất cố gắng để khẳng định vị trí của mình trong học tập, trong cuộc sống. Mong muốn cha mẹ, thầy cô công nhận mình là người lớn được độc lập, tự chủ, không muốn bị quản thúc, ép buộc. Các em rất hăng hái, nhiệt tình với các hoạt động bề nổi mang tính trực quan như thể thao, văn nghệ, lao động…v.v.

Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh PTDT Nội trú (học sinh dân tộc thiểu số) là điều kiện thuận lợi để tổ chức các hoạt động, hành động trong việc phát triển và rèn luyện KNGT cho các em. Việc phát triển KNGT cho học sinh chỉ có thể thông qua hành động và bằng hành động, điều này rất phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh PTDT Nội trú. Nhà giáo dục phải biết phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế trong sự phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi này, đặc biệt là tính tự ti, tự ái của học sinh. Từ đó lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức thích hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động của các em trong các hoạt động nhằm phát triển KNGT cho học sinh một cách hiệu quả.

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 04/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí