Vai Trò Của Giao Tiếp Trong Sự Hình Thành Và Phát Triển Nhân


ngại tâm lý giao tiếp giữa các cá nhân” đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về giao tiếp của học sinh phổ thông lứa tuổi 15-17 trong các mối quan hệ ở trường phổ thông nhằm xác định mức độ phát triển văn hóa giao tiếp thực tiễn và xác định các hình thức biểu hiện của nó. E.P.Ilinnơ, trong tác phẩm “Các nguyên nhân giao tiếp” đã đề cập đến đặc điểm lứa tuổi trong động cơ giao tiếp của trẻ em, tác giả coi tính rụt rè như một nguyên nhân tiêu cực đối với giao tiếp của trẻ, đặc biệt là đối với lứa tuổi thanh, thiếu niên.

Khi nghiên cứu giao tiếp, các nhà khoa học đã đề cập đến kỹ năng giao tiếp trong chính nội hàm khái niệm giao tiếp, cụ thể như N.D. Lêvitov: “Nghệ thuật đứng ở vị trí người khác” (1971) ông đã quan tâm đến khả năng đặt mình vào vị trí của người khác. N.D. Lêvitov đề cập đến năng lực truyền đạt tri thức bằng cách rõ ràng và hấp dẫn [28]. S. Ostrander đã đưa ra những cách xử sự khéo léo ở những tình huống giao tiếp khác nhau [35]. T.V. Trakhôp đề cập đến kỹ năng tìm được cách đối xử đúng đắn, kỹ năng thiết lập mối quan hệ hợp lý trong tiếp xúc. V.P. Dakharov đã nghiên cứu 4 nhóm kỹ năng giao tiếp ở sinh viên Sư phạm và khái quát những đặc trưng cơ bản tương ứng cho mỗi nhóm kỹ năng đó. V.A. Cancalic quan tâm đến hệ thống các biện pháp và kỹ năng tác động qua lại tâm lý - xã hội một cách có tổ chức giữa giáo viên và học sinh [9].

Các công trình nghiên cứu đã đi sâu về vai trò của giao tiếp, KNGT trong sự phát triển nhân cách học sinh, các hình thức giao tiếp của học sinh, vấn đề tổ chức giao tiếp và phát triển KNGT của học sinh trong tập thể nhằm nâng cao tính hiệu quả của hệ thống giáo dục. Mục tiêu quan trọng của phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh thông qua các hoạt động là giúp học sinh vượt lên chính mình, có kỹ năng sống hòa nhập, hoàn thiện nhân cách để làm chủ bản thân, làm chủ xã hội.


1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp và phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh đã được một số nhà nghiên cứu và nhà giáo dục quan tâm. Những năm gần đây, một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến vai trò của giao tiếp trong giáo dục ở nhà trường phổ thông.

- Tác giả Đặng Xuân Hoài và các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học giáo dục (1983) nghiên cứu “Sự hình thành động cơ xã hội của học sinh cấp 2, 3” đã khẳng định: “Giao lưu là điều kiện tất yếu tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau, sự ăn ý, sự thông cảm, sự phối hợp hành động, sự phân công trách nhiệm”.

- Tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc nghiên cứu “Nhu cầu kết bạn của thiếu niên” đã chỉ ra rằng, nhu cầu giao tiếp với bạn cùng tuổi ở thiếu niên phát triển mạnh, là cơ sở để hình thành và phát triển quan hệ bạn bè trong và ngoài nhà trường.

- Tác giả Phùng Thị Hằng, trong luận án tiến sĩ: “Một số đặc điểm giao tiếp của học sinh THPT dân tộc Tày, Nùng” đã chỉ ra rằng, giao tiếp của học sinh THPT dân tộc Tày, Nùng tiếng mẹ đẻ là phương tiện giao tiếp thường ngày của các em, nó có ảnh hưởng đến quá trình sử dụng tiếng Việt của học sinh trong các tình huống giao tiếp. Để hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp cho học sinh THPT người dân tộc thiểu số thì một trong các hình thức, biện pháp rất hiệu quả là tổ chức các hoạt động học tập, hoạt động ngoài giờ lên lớp đa dạng, linh hoạt, sinh động phù hợp với điều kiện nhà trường, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

- Ngoài nghiên cứu về giao tiếp nói chung nhiều tác giả cũng đã đi sâu nghiên cứu về các kỹ năng giao tiếp: G.S. Trần Trọng Thuỷ trong công trình nghiên cứu về giao tiếp đã đưa ra các kỹ năng giao tiếp sau: Biết cách ứng xử tế nhị; biết im lặng đúng lúc; biết tự kiềm chế; biết lắng nghe...v.v. [40]. TS.


Phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang - 3

Nguyễn Thanh Bình đã đề cập đến hai trong ba trở ngại thường gặp ở sinh viên khi giao tiếp thuộc về kỹ năng giao tiếp: “Lúng túng khi điều khiển giao tiếp với học sinh” và “Chưa làm chủ trạng thái tâm lý của bản thân”, trên cơ sở đó tác giả đã xây dựng chương trình tác động sư phạm nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp: Kỹ năng “Tự chủ cảm xúc hành vi” và kỹ năng “Chủ động điều khiển quá trình giao tiếp” [6]. TS. Lê Thị Bừng đã đề cập đến cách ứng xử khéo léo khi tiếp xúc, ứng xử học đường, ứng xử trong quan hệ bạn bè, ứng xử nơi làm vệc...v.v.[8]. TS Nguyễn Liên Châu đã nghiên cứu một số kỹ năng giao tiếp của Hiệu trưởng các trường Tiểu học như: kỹ năng lập kế hoạch; kỹ năng định vị; kỹ năng nói; kỹ năng lắng nghe; kỹ năng phối hợp; kỹ năng bình tĩnh tự chủ đối với các yêu cầu tâm lý giao tiếp trong quản lý [10]. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của các học viên cao học và sinh viên trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Như vậy, hầu như rất ít công trình nghiên cứu về phát triển KNGT cho đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số ở các trường PTDT Nội trú. Từ những phân tích trên chúng tôi nhận thấy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề giáo dục, phát triển KNGT cho học sinh các trường PTDT Nội trú để có những biện pháp giúp các em học sinh hình thành và phát triển KNGT. Bởi KNGT có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và giáo dục toàn diện nguồn nhân lực, là điều kiện thành đạt cho mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại.

1.2. Những khái niệm công cụ

1.2.1. Giao tiếp

1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp

Giao tiếp là một hiện tượng tâm lý phức tạp, có nhiều mặt, nhiều cấp độ, nó được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: Nghiên cứu trên quan


điểm của lý thuyết hệ thống, của điều khiển học, tâm lý học xã hội, tâm lý học nhân cách, tâm lý học kinh doanh, ngôn ngữ học,...v.v. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa, nhiều quan niệm khác nhau về giao tiếp và có thể khái quát thành ba xu hướng sau đây:

* Xu hướng thu hẹp nội hàm giao tiếp

Đại diện cho xu hướng này là nhà tâm lý học người Mỹ E.E. Acguyt, nhà tâm lý học K.K. Platônốp, A. Kôlôminxki, M.Again (Anh), X.L. Rubinstein, A.G. Côvalov, L.X. Vưgôtxki…v.v.

Ở xu hướng này, các tác giả quan niệm giao tiếp như là một quá trình thông tin, chỉ đề cập đến mặt nào đó của nội hàm giao tiếp. Họ cho rằng muốn đạt kết quả cao trong giao tiếp thì chủ yếu phải tổ chức quá trình giao tiếp sao cho bên phát, bên thu thông tin không bị thất lạc, phải cùng ngôn ngữ, cùng nền văn hoá…., thì mới có thể hiểu đúng thông điệp mà họ muốn truyền cho nhau. Có thể nói hướng nghiên cứu này chỉ dừng ở việc mô tả bề ngoài của quá trình giao tiếp, chưa làm rõ bản chất của quá trình này.

* Xu hướng mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp

Ngược với xu hướng thứ nhất các tác giả của xu hướng này lại quá mở rộng khái niệm giao tiếp. Thậm chí có tác giả coi giao tiếp có chung cả ở người và động vật. Đại diện cho xu hướng này là các tác giả: B.V. Xôcôliôv,

L.V. Bueva, J.Bermont, M.Bevtrant, R.Chakin và các tác giả tập tính học động vật. Họ đã đồng nhất giao tiếp với giao lưu chung cho cả người và động vật. Như vậy, xu hướng này chưa phản ánh đầy đủ bản chất của khái niệm giao tiếp, nó làm mất đi bản chất xã hội của con người trong giao tiếp. Mở rộng khái niệm này sẽ không thấy được sự khác biệt về chất trong giao tiếp giữa con người với sự thông báo của động vật.


* Xu hướng xem giao tiếp không chỉ là quá trình trao đổi thông tin mà còn xem giao tiếp là quá trình hiện thực hoá các mối quan hệ người- người.

Xu hướng này chú ý đến chức năng của giao tiếp, coi giao tiếp là một phạm trù độc lập trong tâm lý học. Đại diện cho xu hướng này là các tác giả: B.Ph. Lômôv, B.A. Parưghin, Bôgalin, G.M. Andreeva...v.v. Chẳng hạn nhà tâm lý học A.A. Bôdaliov coi trọng chức năng hiểu biết lẫn nhau của giao tiếp trong hoạt động của con người. Ia.I.Kôlôminxki coi : Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng giữa con người với con người, trong đó quan hệ liên nhân cách được hiện thực, bộc lộ và hình thành. A.N.Lêônchiev khẳng định: Giao tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích và động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt động tập thể thực hiện các quan hệ xã hội tâm lý và sử dụng phương tiện đặc thù mà trước mắt là ngôn ngữ. B.PH. Lomov cho rằng: “Giao tiếp là phạm trù độc lập trong tâm lý học bên cạnh phạm trù hoạt động. Hoạt động và giao tiếp được xem như là hai mặt tương đối độc lập của quá trình thống nhất trong cuộc sống con người[32].

Như vậy, ở xu hướng này phản ánh chính xác và đầy đủ hơn mối tác động qua lại giữa con người với con người trong xã hội. Các tác giả đã nêu lên được nội hàm của khái niệm giao tiếp, đó là:

- Giao tiếp là hoạt động chỉ có ở con người, nhằm làm thiết lập các mối quan hệ giữa con người với con ngưòi trong xã hội. Nhờ có giao tiếp mà các mối quan hệ của con người mới được hình thành, vận hành và phát triển.

- Trong quá trình giao tiếp bao giờ cũng có sự tác động qua lại giữa chủ thể giao tiếp và khách thể giao tiếp.


- Trong quá trình giao tiếp có hai chủ thể cùng tham gia trao đổi thông tin, cảm xúc, tác động lẫn nhau, phản ánh và hiểu biết lẫn nhau, chủ thể này lại chính là “khách thể” của chủ thể kia.

Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp được nghiên cứu muộn và chậm hơn. Các tác giả cũng đã đưa ra các quan niệm khác nhau về giao tiếp:

- Giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hoá các quan hệ xã hội[17].

- Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng tình cảm, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp [22].

- Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau [36].

- Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không chủ định, có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc bằng phi ngôn ngữ [40].

- Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý, tạo nên quan hệ giữa hai hoặc nhiều người với nhau, chứa định nội dung xã hội lịch sử nhất định, có nhiều chức năng tác động, hỗ trợ cùng nhau [3].

Như vậy, từ các quan niệm về giao tiếp khác nhau chúng ta có thể hiểu giao tiếp bao gồm ba mặt thống nhất, tác động qua lại bổ sung cho nhau:

- Mặt nhận thức: Bao gồm trao đổi thông tin, tri giác lẫn nhau, hiểu biết giữa con người với con người.

- Mặt thái độ, cảm xúc: Thể hiện sự trao đổi thái độ, cảm xúc lẫn nhau.

- Mặt tương tác: Thể hiện sự liên kết, tác động qua lại giữa con người với nhau.


1.2.1.2. Chức năng của giao tiếp

Có nhiều cách tiếp cận phân tích chức năng của giao tiếp: Theo B.Ph. Lômov, giao tiếp có 3 chức năng cơ bản:

+ Chức năng thông tin (thông báo truyền tin): Thể hiện trong toàn bộ quá trình truyền và thu nhận thông tin của các chủ thể giao tiếp. Con người đã sử dụng các phương thức giao tiếp (ngôn ngữ và phi ngôn ngữ) để thực hiện các chức năng này.

+ Chức năng điều chỉnh, điều khiển: Trong quá trình giao tiếp chủ thể không những tự chủ cảm xúc, thái độ, hành vi mà còn điều chỉnh người khác cho phù hợp với mục đích giao tiếp.

+ Chức năng cảm xúc của giao tiếp liên quan trực tiếp đến lĩnh vực cảm xúc của con người. Trong giao tiếp con người không chỉ truyền và nhận thông tin, cũng không chỉ có tác động lẫn nhau mà còn quy định các trạng thái cảm xúc của chủ thể.

Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: từ bản chất của khái niệm giao tiếp, có thể nêu lên 5 chức năng cơ bản:

+ Chức năng thông tin, nhận thức: Qua giao tiếp người ta có thể trao đổi, học tập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm, các giá trị chuẩn mực xã hội…v.v.

+ Chức năng cảm xúc: Qua giao tiếp không chỉ bộc lộ mà còn tạo ra những ấn tượng, cảm xúc giữa các chủ thể.

+ Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau: Qua giao tiếp con người không chỉ nhận thức, đánh giá người khác mà còn tự nhận thức và đánh giá bản thân.

+ Chức năng điều chỉnh hành vi: Trên cơ sở nhận thức, đánh giá lẫn nhau, qua giao tiếp mỗi chủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình cũng như tác động đến động cơ, mục đích và quyết định hành động của chủ thể khác.


+ Chức năng phối hợp hành động: Nhờ quá trình giao tiếp, con người đã liên kết, hợp tác với nhau, phối hợp hoạt động, hành động để cùng giải quyết nhiệm vụ nào đó đạt tới mục tiêu chung.

Tuy có nhiều cách phân chia khác nhau về chức năng của giao tiếp, nhưng các tác giả đều thống nhất ở chỗ: Thông qua giao tiếp con người điều khiển, điều chỉnh hoạt động nhằm thích ứng với yêu cầu của đời sống xã hội, đảm bảo cho sự phát triển mỗi cá nhân và sự tồn tại phát triển của xã hội.

1.2.1.3. Vai trò của giao tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân

cách

Giao tiếp là nhu cầu của cuộc sống, là điều kiện tồn tại, phát triển của

con người và xã hội. Nguồn ngốc của giao tiếp xuất phát từ hoạt động lao động xã hội. Hoạt động lao động đã tạo ra các quan hệ trong lao động, từ đó xuất hiện các quan hệ kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức, luật pháp… Đó là các quan hệ giữa con người với con người trong quá trình hoạt động cùng nhau.

Thông qua giao tiếp, cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tiếp thu nền văn hoá xã hội - lịch sử biến nó thành cái riêng của mình, cũng qua quá trình giao tiếp con người truyền đạt lại những kinh nghiệm xã hội - lịch sử của bản thân cho người khác, cho xã hội, đồng thời tiếp thu các kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người chuyển thành kinh nghiệm của bản thân.

Giao tiếp là điều kiện của sự hình thành và phát triển nhân cách. Ở mỗi cá nhân, các nét tính cách chỉ được hình thành thông qua kinh nghiệm giao tiếp, thông qua việc tiếp xúc của cá nhân với mọi người trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội. Qua giao tiếp cá nhân có thể so sánh mình với người khác, biết được các giá trị xã hội của người khác, trên cơ sở đó tự điều khiển, điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mực xã hội, tự hoàn thiện mình.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/10/2022