Quan Điểm Về Phát Triển Tín Dụng Xuất Khẩu Của Nhà


Trong khi đó, lãi suất trong TDXK của ngân hàng thương mại là lãi suất thị trường. Mức lãi suất này cao hơn lãi suất TDXK của Nhà nước. Như vậy lãi suất TDXK của Nhà nước hấp dẫn khách hàng hơn lãi suất xuất khẩu của ngân hàng thương mại.

• Trong TDXK của Nhà nước, chênh lệch lãi suất sẽ được ngân sách nhà nước cấp bù; trong khi tín dụng xuất khẩu của ngân hàng thương mại, lãi suất phải cao hơn mức lãi suất hòa vốn, nếu không ngân hàng thương mại sẽ bị lỗ;

• Xử lý nợ xấu trong TDXK của Nhà nước thực hiện theo quy định chung, nếu quỹ dự phòng xử lý rủi ro không đủ sẽ được ngân sách cấp bù. Trong khi TDXK của ngân hàng hàng mại, phần chênh lệch thiếu sẽ phải được hạch toán lỗ.

1.3. QUAN ĐIỂM VỀ PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CỦA NHÀ

NƯỚC

1.3.1. Tổng quan về sự phát triển

Theo từ điển tiếng Việt, thì “Phát triển” được hiểu là một sự biến đổi, hoặc làm cho sự biến đổi theo chiều hướng tăng lên, tăng từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

Theo từ điển Bách khoa toàn thư: “ Phát triển là sự biến đổi hoặc làm cho sự biến

đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 261 trang tài liệu này.

Theo Gerard Crellet ( 2000): “ Phát triển là qúa trình một xã hội đạt đến thỏa mãn các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản”.

Phát triển được coi là một quá trình và một xã hội được coi là phát triển khi xã hội đó thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Thuật ngữ phát triển không chỉ bao hàm nội dung kinh tế mà còn cả nội dung xã hội.

Phát triển hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 8

Theo từ điển Kinh tế, thì “phát triển” là sự tăng lên cả về quy mô và chất lượng như phát triển kinh tế hàng hóa, phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề ,sản phẩm v.v Ở phạm vi rộng lớn và bao quát, các nhà nghiên cứu thường nói đến phát triển kinh tế. Thuật ngữ phát triển còn được đề cập ở phạm vi hẹp hơn, cụ thể hơn như phát triển nông nghiêp nông thôn, phát triển công nghiệp, phát triển tài chính, phát triển tín dụng v.v.

Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 của BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 xác định quan điểm phát triển như sau:


Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược;

Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển;

Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa;

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Theo Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 được phê duyệt theo quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/4/2012, xác định các quan điểm về phát triển bền vững Việt Nam như sau [55]:

Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước; Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ

tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội.

Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các Bộ, ngành và địa phương, các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân;

Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là loại tài nguyên không


thể tái tạo, gìn giữ và cải thiện môi trường sống; xây dựng xã hội học tập; xây dựng

lối sống thân thiện môi trường, sản xuất và tiêu dùng bền vững;

Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất;

Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển bền vững Việt Nam là:Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Theo Chiến lược phát triển VDB được phê duyệt theo quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: Tiếp tục củng cố và phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam theo hướng bền vững, hiệu quả đảm bảo đủ năng lực để thực hiện chính sách TDĐT và TDXK của Nhà nước” [53] đồng thời xác định rõ các mục tiêu định lượng và chất lượng của chiến lược phát triển VDB.

1.3.2. Các tiêu chí phát triển tín dụng xuất khẩu của Nhà nước

Từ những luận cứ nói trên về “phát triển”, khi nói đến “phát triển kinh tế” là muốn nói đến sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế bao hàm mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là điều kiện tiên quyết và cơ bản để giải quyết công bằng xã hội.

Từ nhận thức này, tác giả trình bày quan điểm của cá nhân về phát triển tín dụng xuất khẩu nói chung và phát triển TDXK của Nhà nước như sau:

Khi đề cập đến phát triển tín dụng nói chung và tín dụng xuất khẩu nói riêng là nói đến sự gia tăng cả quy mô, tốc độ và chất lượng tín dụng của hệ thống tài chính, chủ yếu là tín dụng ngân hàng và tín dụng nhà nước. Sự phát triển của tín dụng nhà nước thường gắn liền với gia tăng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong khi đó, phát triển tín dụng ngân hàng là gia tăng mức cung ứng vốn tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế, nhờ đó hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ có sự chuyển biến tốt về lượng và chất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


Khi nói đến phát triển kinh tế là nói đến sự phát triển đồng bộ của các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội với tầm bao quát và ý nghĩa rộng lớn. Khi nói đến phát triển của một ngành, một lĩnh vực hoặc một nội dung cụ thể nào đó, thì nội hàm của thuật ngữ phát triển vẫn được thể hiện, nhưng mức độ tác động, ảnh hưởng không rộng lớn. Dựa trên lập luận này, phát triển tín dụng xuất khẩu của Nhà nước được thể hiện trên hai tiêu chí là: phát triển tín dụng xuất khẩu về chiều rộng (phát triển về lượng ) và phát triển tín dụng xuất khẩu về chiều sâu (phát triển về chất).

1.3.2.1. Phát triển tín dụng xuất khẩu của Nhà nước về số lượng và quy mô

Phát triển về quy mô là phát triển theo chiều rộng, tức là sự tăng lên về quy mô số lượng các sản phẩm dịch vụ hiện có và mở thêm sản phẩm dịch vụ mới. Đây là nội dung quan trọng và dễ nhận biết trong chiến lược phát triển tín dụng xuất khẩu của ngân hàng. Phát triển chiều rộng làm cho sản phẩm dịch vụ phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu của xã hội, đồng thời gia tăng khả năng cạnh tranh. Phát triển chiều rộng giúp ngân hàng mở rộng danh mục cho vay, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, nhờ đó vừa duy trì được khách hàng cũ, đồng thời thu hút và gia tăng khách hàng mới, tạo điều kiện để mở rộng thị trường nâng cao vị thế của tổ chức tài chính thực hiện chính sách TDXK của Nhà nước.

Phát triển về mặt lượng của hoạt động TDXK bao gồm các chỉ tiêu sau:

• Gia tăng doanh số cho vay, doanh số thu nợ và mức dư nợ cuối kỳ;

• Đạt tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng một cách hợp lý;

• Tìm kiếm và mở rộng đối tượng khách hàng vay vốn;

• Tìm kiếm và mở rộng danh mục hàng hóa được vay vốn tín dụng xuất khẩu;

• Gia tăng và làm phong phú danh mục sản phẩm TDXK để thích nghi với nhiều loại hình khách hàng;

• Nâng dần thị phần tín dụng trong hệ thống ngân hàng.

Phát triển tín dụng về mặt “lượng” thực chất là tăng quy mô cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Khi quy mô tín dụng gia tăng sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, nhờ đó sản xuất và lưu thông hàng hóa dịch vụ sẽ được mở rộng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Phát triển tín dụng về mặt lượng với tỷ lệ gia tăng hợp lý, với tỷ lệ tăng trưởng khoảng từ 15-18 % năm


sẽ phát huy tác dụng tích cực đối với nền kinh tế nói chung và đối với thị trường tài chính tiền tệ nói riêng. Ngoài ra khi tỷ lệ gia tăng tín dụng hợp lý, cũng sẽ góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm phát.

1.3.2.2. Phát triển tín dụng xuất khẩu của Nhà nước về chất lượng và hiệu quả Phát triển TDXK theo chiều sâu (chất lượng và hiệu quả) trước hết phải từng bước hoàn thiện các sản phẩm tín dụng theo hướng nâng cao chất lượng đảm bảo tính tiện ích, nhanh nhạy. Phát triển TDXK về chất lượng là tạo ra danh mục sản phẩm dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, đem lại cho khách hàng những giá trị và lợi ích thiết thực bằng việc hoàn thiện quy trình, đơn giản hóa thủ tục nghiệp vụ, tạo sự hấp dẫn cho mọi khách hàng. Phát triển TDXK theo chất lượng đồng nghĩa với việc mang lại hiệu qua tài chính cuối cùng cho bản thân ngân hàng.

Phát triển về mặt chất lượng của hoạt động tín dụng xuất khẩu là phần đấu để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất khẩu với các chỉ tiêu chính sau:

• Nâng cao chất lượng các khoản mục tín dụng xuất khẩu của Nhà nước;

Tài sản có trong khoản mục cho vay nói chung và trong khoản mục tín dụng xuất khẩu nói riêng phải được nâng cao chất lượng. Chất lượng tài sản có trong khoản mục tín dụng xuất khẩu tốt hay xấu tùy thuộc vào toàn bô quy trình tín dụng từ khâu thẩm định tín dụng, xét duyệt cho vay, giải ngân, quản lý nợ và thu hồi vốn vay. Nếu toàn bộ quy trình được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định sẽ tạo ra những danh mục cho vay có chất lượng trong tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Chất lượng tài sản có trong khoản mục tín dụng xuất khẩu cao hay thấp tùy thuộc vào khả năng thu hồi vốn gốc và lãi vay của từng danh mục cho vay đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Điều này phụ thuộc vào việc quản lý theo dõi nợ vay của VDB và quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, vì vậy cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bên cho vay và bên đi vay để có được kết quả tốt. Về mặt định lượng, chất lượng tài sản có trong khoản mục tín dụng xuất khẩu của Nhà nước được đánh giá là tốt khi nợ nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) phải đạt tỷ trọng tối thiểu 90% tổng dư nợ tín dụng xuất khẩu. Đây là yêu cầu cao trong quản lý chất lượng tín dụng.

• Giảm tỷ lệ nợ xấu;


Phát triển về mặt chất của tín dụng xuất khẩu, đồng thời là quá trình tăng cường quản lý để từng bước giảm tỷ lệ nợ xấu so với thời điểm hiện tại. Khi tỷ lệ nợ xấu được giảm xuống, đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng xuất khẩu gia tăng. Đây được coi là nội dung đặc biệt quan trọng trong kế hoạch phát triển tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Thực tế, tỷ lệ nợ xấu của TDXK là rất cao, cao hơn tỷ lệ nợ xấu bình quân chung của toàn ngành, do đó phấn đấu giảm tỷ lệ nợ xấu trong dư nợ tín dụng xuất khẩu của Nhà nước được coi là một tiêu chí của sự phát triển.

• Giảm tỷ lệ nợ khoanh;

Nợ khoanh, nợ xóa là những khoản nợ xấu thuộc nhóm 5, nhưng không còn khả năng xử lý bằng biện pháp nghiệp vụ thông thường của ngân hàng, mà được xử lý bằng biện pháp tài chính phù hợp với quy định của văn bản pháp lý. Nợ khoanh, nợ xóa thể hiện mức độ thiệt hại của khoản mục tín dụng đối với bản thân ngân hàng và ngân sách của nhà nước. Giảm tỷ lệ nợ khoanh, nợ xóa, tiến tới không còn nợ khoanh, nợ xóa sẽ góp phần gia tăng chất lượng tín dụng xuất khẩu Nhà nước.

Tăng vòng quay vốn tín dụng;

Tăng vòng quay vốn tín dụng được coi là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phấn đấu để tăng vòng quay vốn tín dụng.Vòng quay vốn tín dụng luôn gắn liền với vòng tuần hoàn chu chuyển vốn của doanh nghiệp, tuy nhiên nếu ngân hàng không sát cánh với doanh nghiệp, không chủ động tăng cường quản lý nợ, đôn đốc thu hồi nợ thì vòng quay vốn tín dụng sẽ không tăng, làm cho hiệu suất sử dụng đồng vốn của ngân hàng và doanh nghiệp giảm sút.

Phát triển tín dụng về mặt chất, thực chất là nói đến hiệu quả thực sự của tín dụng đối với nền kinh tế cũng như đối với hệ thống ngân hàng. Đối với nền kinh tế, tín dụng là đòn bẩy để phát triển và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Hiệu quả tín dụng tăng, đồng nghĩa với việc sử dụng vốn tín dụng ngày càng có hiệu quả trong các doanh nghiệp và khách hàng vay vốn, nhờ đó vừa làm gia tăng khối lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ cho nền kinh tế, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, tín dụng phát triển phải đi đôi với sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng, làm cho hệ thống ngân hàng phát huy vai trò tích cực trong việc tạo lập cung ứng vốn cho nền kinh tế, đảm bảo mạch máu lưu thông vốn của nền kinh tế trôi chảy, thông suốt.


• Nâng cao hiệu quả tài chính trong hoạt động tín dụng xuất khẩu;

Hiệu quả tài chính là thành quả cuối cùng của sự phát triển nói chung và phát triển TDXK nói riêng. Nếu hoạt động TDXK có sự phát triển về chiều rộng thể hiện qua doanh số và dư nợ TDXK tăng nhưng không tạo ra hiệu quả tài chính, đối với VDB đó chính là chênh lệch dương giữa thu nhập và chi phí hoạt động nghiệp vụ, thì sự phát triển đó không có ý nghĩa đầy đủ. Tổ chức tài chính của Chính phủ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và được ngân sách cấp bù chênh lệch thu chi, nhưng không phải vì vậy mà không quan tâm đến hiệu quả tài chính. Hơn nữa, trong tương lai không xa, tổ chức tài chính của Chính phủ cũng sẽ hướng đến tự chủ tài chính, khi đó hiệu quả tài chính là thước đo đánh giá chất lượng hoạt động nghiệp vụ của tổ chức này.

Với hai tiêu chí phát triển TDXK như trên, luận án cho rằng việc phát triển TDXK của Nhà nước trong giai đoạn mới cần được thực hiện theo hướng sau đây:

Thứ nhất, phát triển TDXK của Nhà nước phải được coi là nhiệm vụ lớn và quan trọng mà tổ chức tài chính của Chính phủ phải luôn quán triệt trong quá trình thực hiện chính sách của Chính phủ để thúc đẩy xuất khẩu phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;

Thứ hai, phát triển TDXK của Nhà nước là phát triển cả về mặt quy mô và chất lượng tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động TDXK của Nhà nước cả về mặt kinh tế xã hội và cả về phương diện tài chính;

Thứ ba, phát triển TDXK của Nhà nước sẽ góp phần năng cao chất lượng hoạt động tín dụng của tổ chức tài chính của Chính phủ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gia tăng trong ngành ngân hàng. Việc mở rộng tìm kiếm khách hàng, tạo điều kiện và giảm bớt thủ tục để cho khách hàng tiếp cận vốn vay nhanh chóng, hướng đến phục vụ khách hàng một cách tốt nhất;

Thứ tư, phát triển TDXK của Nhà nước phải gắn liền với việc năng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ và nhân viên tín dụng. Nâng cao trách nhiệm và tinh thần phục vụ vì sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội;

Thứ năm, phát triển của TDXK của Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, yếu tố chủ quan, đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt vấn đề về năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro; năng lực tài chính; chất lượng nguồn


nhân lưc; chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm tín dụng; chính sách khách hàng; khả năng tiếp cận trình độ công nghệ ngân hàng tiên tiến; mức độ rủi ro phải đối mặt; hệ thống kênh phân phối và hoạt động marketing; hệ thống thông tin khách hàng. Những vấn đề này không thể giải quyết được ngay, mà phải có thời gian nhất định, trên tinh thần khẩn trương, chắc chắn để xử lý từng bước,từng nội dung, theo từng điều kiện cụ thể.

1.4. TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CỦA NHÀ NƯỚC TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

1.4.1. Tín dụng xuất khẩu của Nhà nước tại một số nước trên thế giới

Sự can thiệp mang tính chất hỗ trợ giúp đỡ của Chính phủ vào lĩnh vực tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, nhiều hay ít, tùy thuộc vào chính sách của mỗi nước. Tuy có sự can thiệp với những mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung đều hướng đến mục đích là hỗ trợ và kích thích xuất khẩu hàng hóa của nước đó.

Nhiều nước trên thế giới coi việc tài trợ cho xuất khẩu là một chiến luợc mang tính quốc gia, vì vậy các nước này, hết sức tạo điều kiện về vốn và bảo hiểm của nhà nuớc trong quá trình sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa. Nhiều nuớc trên thế giới đã thành lập những ngân hàng chuyên kinh doanh phục vụ cho xuất nhập khẩu, thông qua đó áp dụng biện pháp tài trợ hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế của các nước đó.

●Tại Hàn quốc

Tài trợ xuất khẩu

Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (Export - Import Bank of Korea (KEXIM) là một tổ chức tín dụng xuất khẩu chính thức cung cấp tín dụng xuất khẩu toàn diện và dự án tài chính để hỗ trợ các doanh nghiệp Hàn Quốc trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Thành lập vào năm 1976, KEXIM đã cố gắng để tạo thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia và tăng cường hợp tác kinh tế với nước ngoài như là một chất xúc tác tài chính. Căn cứ Đạo luật Hàn Quốc, Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán của KEXIM và cung cấp kinh phí để trang trải bất kỳ lỗ ròng vượt dự trữ của nó. Chính phủ cung cấp tư vấn chiến lược chung trong quan hệ với các chính sách và hoạt động kinh doanh của KEXIM, nhưng KEXIM chỉ được trao với một mức độ rõ ràng của sự độc lập trong việc xây dựng chính sách hoạt động tín dụng và các hoạt

Xem tất cả 261 trang.

Ngày đăng: 26/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí