Quy Trình Làm Việc Nhanh Chóng, Thuận Tiện, Chi Phí Giao Dịch Thấp.


suất chuẩn. Mức lãi suất cơ bản phải có tác dụng định hướng lãi suất trên thị trường nhưng không được có tính áp đặt.

5.1.1.3. Điều kiện hạ tầng cơ sở

CCPS là một sản phẩm hiện đại của hệ thống tài chính. Vì thế để có thể triển khai NVPS tại NHTM ở một nước, trước hết phải có một hạ tầng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại của thị trường phái sinh làm nền tảng.

Việc thanh toán tuy không trực tiếp thuộc các NVPS những nó liên quan đến việc chuyển phí đối với các dịch vụ từ SPPS mà NH cung cấp, thanh toán khi đến ngày đáo hạn các HĐKH, HĐTL, HĐHD… Để tạo điều kiện cho GDPS phát triển, hệ thống thanh toán phải đáp ứng một khối lượng phù hợp với quy mô các giao dịch trên thị trường, có hệ thống thanh toán tự động, thanh toán bù trừ, phải có trung tâm thanh toán tập trung.

Để phát triển thị trường OTC cho các GDPS đòi hỏi hệ thống mạng internet, mạng lưới viễn thông rộng và hiện đại. Có như vậy, NVPS mới diễn ra chính xác, nhanh chóng, kịp thời. Đồng thời, chi phí viễn thông, chi phí mạng thấp cũng là một điều kiện gián tiếp tác động đến hiệu quả của NVPS. Bên cạnh đó phải có sàn giao dịch tập trung, nhất là với GDTL.Sàn phải đáp ứng được việc lưu trữ thông tin lớn, cập nhập thông tin liên quan đến CCPS như tỷ giá, lãi suất giá cả, tính toán tự động lỗ - lãi.

5.1.2. Điều kiện từ phía NH

5.1.2.1. Quy trình làm việc nhanh chóng, thuận tiện, chi phí giao dịch thấp.

- Xây dựng quy trình làm việc hợp lý, giảm thời gian giao dịch và chi phí giao dịch

- KH có thể nhận được các sản phẩm với dịch vụ xuyên suốt. Nên tổ chức sao cho KH chỉ phải nói chuyện với một giao dịch viên, trả một mức giá hợp nhất và nhận được một xác nhận dễ hiểu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

- Các nhân viên bán hàng cần hiểu rõ về dịch vụ phái sinh để tư vấn được cho KH. Các cán bộ phái sinh vừa cung cấp dịch vụ vừa góp phần định hướng cho DN.

- Luồng thông tin thông suốt giữa các giao dịch viên. Có sự cộng tác giữa nhân viên phái sinh và các nhân viên khác.

Phát triển giao dịch tài chính phái sinh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 20

5.1.2.2. Đội ngũ cán bộ thực hiện NVPS

Nhân sự là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào, đối với NVPS, nhân sự là nhân viên của những trực tiếp tham gia thực


hiện, ra quyết định các GDPS. Các NHTM cần có đủ số lượng nhân viên có trình độ

chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp để triển khai nghiệp vụ này.

Nhân viên cần phải có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường khi tham gia giao dịch, về các loại CCPS, quy cách giao dịch, kỹ thuật định giá, các loại rủi ro có liên quan và luật lệ của thị trường,... NHTM cần chuyên môn hóa đối với các nhân viên có liên quan đến nghiệp vụ này như nhân viên giao dịch, nhân viên quản lý rủi ro, nhân viên kế toán, kiểm soát,..

- Phát triển đội ngũ từ lãnh đạo đến nhân viên đều có kinh nghiệm và được đào tạo bài bản về các NVPS.

- Đội ngũ nhân viên tư vấn và giao dịch có khả năng thương lượng hiệu quả.

- Đội ngũ các chuyên gia có khả năng nhận biết, phân tích, và dự báo tình hình liên quan đến lĩnh vực phái sinh

- Thiết kế được các SPPS, đủ để có thể đưa ra đúng lúc, được thị trường chào đón và sử dụng. Công việc thiết kế một CCPS bao gồm: đưa ra các chi tiết của sản phẩm, tính giá của sản phẩm và sau đó phòng ngừa rủi ro cho sản phẩm đó.

5.1.2.3. Công nghệ

Ngoài các yếu tố trên ra thì việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin vào mọi hoạt động trên thị trường là một điều kiện hết sức quan trọng. Thực sự không thích hợp nếu sử dụng những công nghệ lạc hậu trong quá trình thực hiện các giao dịch CCPS vốn là những công cụ đòi hỏi kỹ thuật định giá phức tạp nhất. Phần lớn các GDPS được các giao dịch viên đại diện cho các bên đối tác thực hiện qua điện thoại. Cuộc đối thoại giữa hai bên được ghi lại nguyên văn và được sử dụng làm bằng chứng về sự đàm phán trong giao dịch nếu sau này giữa hai bên có nảy sinh tranh chấp.

Như vậy, việc áp dụng công nghệ thanh toán điện tử giúp cho quá trình thanh toán chính xác và hiệu quả hay việc cập nhật thông tin về diễn biến của thị trường (về lãi suất, tỷ giá,...), về các loại hàng hóa giao dịch trên thị trường sẽ giúp cho các tổ chức tài chính cũng như những chủ thể khác tham gia giao dịch có quyết định đúng đắn trong việc sử dụng các CCPS một cách có hiệu quả để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh.Công nghệ NH gồm: kỹ thuật liên quan đến hạ tầng thanh toán, những tiến bộ trong thu thập, xử lý thông tin, các phần mềm quản lý, tính toán,…

- Có hệ thống thông tin cập nhật liên tục lượng cung cầu trong nước và những thị trường phái sinh quan trọng trên thế giới.


- Có hệ thống thanh toán tự động, thanh toán bù trừ giữa các NH. Các NH có sự hợp tác chặt chẽ với nhau và với các định chế tài chính khác.

- Có hệ thống lưu trữ, phân tích số liệu rất lớn, cập nhật liên tục.

- Có phần mềm thông minh, hỗ trợ hiệu quả để giúp các NHTM có thể đưa ra mức phí thích hợp, có tính cạnh trang cũng như đảm bảo thu nhập cho NH từ NVPS. Dùng phần mềm DerivaGem để tính phí quyền chọn và xây dựng những SPPS cho NH.

5.1.3. Điều kiện từ phía KH

- DN cần nắm bắt được cấu trúc của một quá trình quản trị rủi ro bao gồm: “(1) Nhận diện rủi ro (2) Phân biệt giữa quản trị rủi ro và đầu cơ (3) Đánh giá chi phí của hoạt động quản trị rủi ro trên phương diện chi phí phát sinh do không thực hiện hoạt động quản trị rủi ro”Để đánh giá chính xác chi phí quản trị rủi ro thì phải xem xét chúng trên phương diện chi phí tiềm ẩn của quyết định không thực hiện quản trị rủi ro; giống như phương thức đánh giá chi phí của một hợp đồng bảo hiểm(so với khoản tổn thất tiềm năng).

- Nhân sự có năng lực về SPPS. Khi thấy những rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất sắp tới tác động đến kết quả kinh doanh, DN phải có nhân sự để thực hiện các chương trình quản trị rủi rohiệu quả.

- Tư duy của những người lãnh đạo DN: Tư duy sợ chịu trách nhiệm khiến lãnh đạo DN sợ ra quyết định. Điều này đặc biệt đúng đối với việc sử dụng các CCPS vì chúng là một công cụ phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhưng đôi khi lại vô cùng tốn kém. Những người lãnh đạo cần dám nghĩ dám làm.

- Ban lãnh đạo công ty cần nắm rõ thị trường phái sinh, có như vậy họ mới nắm bắt và có khả năng đưa ra quyết định có lợi cho công ty, thông báo cho các thành viên kiểm soát kế hoạchvà quá trình triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro.

5.2. Một số giải pháp nhằm phát triển GDPS tại các NHTM Việt Nam

5.2.1. Đối với Chính phủ

Từ kết quả nghiên cứu ở chương 4, tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp đối với Chính phủ nhằm phát triển GDPS tại các NHTM Việt Nam như sau:

Hiện nay, các CCPS mới có thị trường giao dịch chính. Tuy nhiên doanh số giao dịch trên thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam vô cùng nhỏ bé, số lượng hàng hóa chưa đa dạng chính vì thế các NHTM thực hiện các GDPS như hợp HĐKH và HĐTL phải giao dịch trên các sàn nước ngoài như London hay NewYork. Còn lại


là giao dịch qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro tín dụng. Các hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ. Nói chung, hiện tại chúng vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ thuần nhất tới các công cụ lai tạp.Nhà nước cần có lộ trình tăng lượng hàng hóa giao dịch trên thị trường nhằm đa dạng hóa sản phẩm.

Tuy nhiên vấn đề của thị trường GDPS Việt Nam không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu của thị trường mà còn cần chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở đây, chính là tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ tài chính phái sinh. Do vậy cơ quan quản lý Nhà nước cần ban hành các quy định về GDPS,hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật của các công cụ tài chính phái sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị trường.

Cùng với việc thành lập các sàn giao dịch phái sinh hàng hóa, chứng khoán phái sinh tập trung, Chính phủ cần hoàn thiện quy định những tiêu chuẩn chất lượng cần đạt được, chuẩn hóa mặt hàng xuất khẩu Việt Nam nhằm tạo điều kiện trong việc định giá sản phẩm. Việc định giá các hợp đồng phái sinh hàng hóa là hết sức cần thiết, là cơ sở để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh và thì trường tài chính phái sinh.

Chính phủ cần tạo điều kiện để NHNN cũng như các NHTM có thể phát huy hết tính sáng tạo của mình trong việc phát triển NVPS bằng cách thống nhất các luật lệ liên quan đến CCPS đã được ban hành trước đó thành một bộ luật dành riêng cho các GDPS.

Bên cạnh đó, Chính phủ nên có các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của các DN trong nước, bằng cách ban hành những chính sách cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp hoặc lãi suất 0% đối với các DN sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Có các chính sách ưu đãi thiết thực đối với các DN xuất khẩu, giảm các rào cản trong thương mại quốc tế đối với hoạt động nhập khẩu.

Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến việc đẩy mạnh và ổn định TTTC, xây dựng một nền kinh tế lành mạnh, minh bạch và bền vững, tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích thị trường phái sinh phát triển.

5.2.2. Đối với NHNN

Hoạt động giao dịch phải thật sự có ý nghĩa trong điều kiện tình hình biến động của thị trường hoàn toàn khách quan. Các nhà đầu tư, DN, những người kinh doanh ngoại tệ, vàng… dựa vào những phán đoán về diễn biến của thị trường, họ sẽ lựa chọn


các CCPS thích hợp để thực hiện. Và để quá trình thực hiện giao dịch các công cụ này được thuận lợi thì cơ chế quản lý của NHNN phải ngày càng được hoàn thiện, phải hoàn chỉnh khung pháp lý cho việc thực hiện các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, tương lai và quyền chọn. Đến thời điểm hiện nay, các văn bản pháp lý quy định cũng như hướng dẫn việc thực hiện các GDPS vẫn bị coi là chưa đầy đủ, trong khi thị trường phái sinh ở nước ta chỉ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Điều đó đã khiến cho các NHTM và các DN rất lúng túng trong việc thực hiện các giao dịch này. Cần có những quy định pháp lý cụ thể cho việc thực hiện các GDPS, đặc biệt là đối với giao dịch quyền chọn, một nghiệp vụ rất mới mà kỹ thuật giao dịch lại phức tạp. Đối với hợp đồng kỳ hạn, tuy là mang tính bắt buộc thực hiện nhưng lại tồn tại rủi ro là người mua có thể gặp phải tình trạng mất khả năng thanh toán, do đó cũng cần đến những quy định của pháp luật để đảm bảo tính thanh khoản cho nhữnghợp đồng kỳ hạn.

Vai trò của NHNN trong việc thúc đẩy các GDPS tại các NHTM Việt Nam là không hề nhỏ. Bởi như đã phân tích ở những phần trước, chính sự ép buộc và gò bó về chính sách của NHNN đã khiến thị trường phái sinh gặp phải nhiều khó khăn. Chẳng hạn như việc cấp phép thực hiện các GDPS cho các NHTM bao gồm nhiều thủ tục pháp lý rườm rà, tốn nhiều thời gian đã gây ra không ít khó khăn cho các NHTM khi muốn tham gia thị trường này. Vì vậy, tác giả xin nêu ra một số kiến nghị đối với NHNN trong việc phát triển GDPS tại các NHTM Việt Namnhư sau:

5.2.2.1. Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá

Điều rất quan trọng để thúc đẩy phát triển các GDPS đó là cơ chế điều hành tỷ giá cần linh hoạt hơn, phản ánh đúng mối quan hệ cung - cầu về ngoại tệ trên thị trường, dựa trên rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam. Trong bối cảnh luồng vốn đổ vào Việt Nam đang tăng lên, một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn sẽ ngăn chặn các áp lực lên lạm phát, đồng thời sự linh hoạt tỷ giá sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các thị trường GDPS, tạo điều kiện bảo hiểm tốt hơn đối với rủi ro về tỷ giá. Trong những năm qua, NHNN điều hành tỷ giá với định hướng ngay từ đầu năm và thông thường điều chỉnh một vài lần trong năm theo một chiều giảm giá VND, vì vậy thị trường thường kỳ vọng NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá vào một số thời điểm trong năm, thường có tính mùa vụ cao dẫn đến tình trạng đầu cơ và găm giữ ngoại tệ.

Tuy nhiên, ở cách thức điều hành tỷ giá mới, NHNN công bố tỷ giá trung tâm hàng ngày, bám sát diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nước và quốc tế, do đó, tỷ giá trung tâm biến động có tăng, có giảm. Tỷ giá biến động theo cả hai chiều sẽ hạn chế những cú sốc từ bên ngoài cũng như loại bỏ dần tâm lý găm giữ, đầu cơ trên thị trường ngoại tệ khi tỷ giá chỉ được điều chỉnh 1 chiều trước đây.


Cuối năm 2015, với việc thực hiện cách thức điều hành tỷ giá mới cùng với việc triển khai quyết liệt các giải pháp đồng bộ trong thời gian qua, tỷ giá và thị trường ngoại hối giữ ổn định, lòng tin vào đồng Việt Nam được củng cố, điều này cũng góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ. NHNN đã chính thức công bố cơ chế điều hành tỷ giá mớitheo đó tỷ giá trung tâm USD/VND sẽ được công bố hàng ngày. Tỷ giá trung tâm được xác định dựa trên: tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường liên NH, diễn biến tỷ giá chéo của 7 ngoại tệ khác có quan hệ thương mại, đầu tư, và vay nợ lớn với Việt Nam, các cân đối vĩ mô và tiền tệ, và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Bảy ngoại tệ chủ chốt khác bao gồm các đồng tiền của Liên minh Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, và Thái Lan.

Như vậy, về cơ bản NHNN chỉ làm rõ hơn cơ chế điều hành tỷ giá so với trước đây, chính thức thừa nhận tác động chéo của một số đồng tiền chủ chốt khác, ngoài USD, đến tỷ giá, và cho phép tỷ giá có thể thay đổi hàng ngày theo công bố về tỷ giá trung tâm. Tỷ giá thực tế trên thị trường ngoại hối trong hai tuần đầu giao dịch vẫn chủ yếu xoay quanh biên độ giới hạn trên của tỷ giá trung tâm, cho nên thị trường vẫn còn hoài nghi về tính chỉ báo, dẫn dắt của cơ chế tỷ giá mới. Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay NHNN cần nới lỏng dần chính sách can thiệp trực tiếp vào thị trường, hướng đến tự do hóa chuyển đổi tiền đồng Việt Nam. Điều này sẽ đảm bảo tỷ giá phản ánh đúng cung cầu trên thị trường. Từng bước nâng cao giá trị đồng nội tệ trên thị trường thế giới, xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá linh họat hơn.

Ngoài ra, NHNN là cơ quan có khả năng dự báo được diễn biến của tỷ giá mà các DN có thể đặt niềm tin bởi vì ngoài vai trò điều hành tỷ giá, NHNN còn là cơ quan phát đi những tín hiệu mà theo đó, các NH thương mại và các DN có những phản ứng kịp thời để phòng ngừa rủi ro tỷ giá hoặc hạn chế tổn thất do rủi ro tỷ giá mang lại. Do đó, nếu NHNN có những dự báo càng chính xác về xu hướng biến động tỷ giá thì sẽ tạo được niềm tin rất lớn ở các DN cũng như các NHTM, và khi đó các DN sẽ an tâm hơn trong việc sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, đặc biệt là giao dịch kỳ hạn.

5.2.2.2. Hoàn thiện chính sách lãi suất

Chính sách lãi suất một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tùy thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ NH nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động NH và sự phân bố có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh tế.


Chính sách lãi suất của Việt Nam từ khi đổi mới (1988) đến nay đã có nhiều thay đổi: Từ chính sách lãi suất cố định (1988-1992), lãi suất trần cho vay và sàn lãi suất huy động có linh hoạt (1993- 2000), lãi suất cơ bản kèm biên độ dao động (2000-2001 với ngoại tệ và 2000- 2002 với nội tệ), lãi suất thỏa thuận (2002-2010). Tuy nhiên, từ 2011 đến nay, với chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách lãi suất của NH Nhà nước đã có những thay đổi theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn, khởi nguồn bằng chính sách lãi suất trần huy động theo Thông tư 02/2011 ngày 3/3/2011. Từ đó đến nay, chính sách lãi suất trần huy động vẫn được thực hiện, nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt hơn, chỉ tập trung vào huy động ngắn hạn và điều chỉnh theo tín hiệu thị trường; và trần lãi suất cho vay ngắn hạn của một số ngành, lĩnh vực trọng điểm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc NH Nhà nước vẫn đánh giá hệ thống TCTD chưa thực sự hoạt động trở lại bình thường và cần giám sát chặt chẽ để đảm bảo tính an toàn cao nhất của cả hệ thống.

Năm 2015 vấn đề lãi suất vẫn là vấn đề lớn, việc giảm thêm lãi suất và duy trì ổn định lãi suất như năm 2014 là hết sức khó khăn bởi nền kinh tế đang có dấu hiện phục hồi, khiến áp lực tăng lãi suất là rất lớn. NHNN đã phối hợp với các bộ, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ phát triển TTTC, chứng khoán để tăng khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp gắn với kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng.

Việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNNlà "thắt chặt" hay "nới lỏng" tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên TTTC, tiền tệ, được các DN, người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng.

Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này, NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sátnhằm hạn chế rủi ro.

Trên thị trường vốn chính sách tự do hóa bước đầu lãi suất tín dụng mang lại những hiệu quả tích cực, lãi suất ngày càng mang tính khách quan, phản ánh tương đối


được thực trạng cung cầu vốn của thị trường.Với sự biến động của lãi suất tín dụng tác động đến thị trường ngoại hối mang tính khách quan hơn, đây sẽ là một tác nhân quan trọng kích thích các nhà đầu tư quan tâm đến GDPS.

5.2.2.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về GDPS

Như đã đề cập trong phần thực trạng, các văn bản pháp lý hướng dẫn các GDPS của NHNN còn một số bất cập. Chính vì vậy, NHNN cần hoàn thiện môi trường pháp lý cho các giao dịch này theo hướng:

Thứ nhất, Theo quyết định 145/2004 QĐ- NHNN thì các NHTM chỉ được phép thực hiện bán quyền chọn cho tổ chức kinh tế và cá nhân mà không được mua quyền chọn. Chính vì vậy trong thời gian tới, NHNN cần cho phép NHTM thực hiện mua quyền chọn từ các tổ chức kinh tế và cá nhân, có nghĩa là họ có quyền bán quyền chọn cho NH. Điều này sẽ tạo nhiều cơ hội cho DN tham gia tích cực vào thị trường. Thêm vào đó, thời gian qua do chính sách quản lý về ngoại hối quá chặt nên DN không thể tự do mua hoặc bán ngoại tệ nhằm mục đích đâu cơ hay phục vụ cho chiến lược phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà chỉ mua hoặc bán ngoại tệ cho mục đích thanh toán. Do đó, trong thời gian tới, ngoài việc nới lỏng cơ chế mua bán CCPS thì NHNN nên mở rộng các đối tượng mua bán ngoại tệ, khác phục tình trạng luẩn quẩn DN không có công cụ bảo vệ rủi ro tỷ giá nên NHNN phải can thiệp và quản lý chặt chẽ để bảo vệ DN, ngược lại khi mà DN được bảo vệ bởi chính sách của NHNN nên không cần sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

Thứ hai, do các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ còn mới và phức tạp nên chứa đựng nhiều rủi ro. Chính vì vậy, NHNN cần tăng cường quản lý giao dịch hối đoái thông qua việc quản lý trạng thái ngoại tệ. Thay vì NHNN chỉ quy định trạng thái ngoại tệ tại thời điểm cuối ngày, NHNN nên chuyển từ quy định quản lý trạng thái ngoại tệ tại thời điểm cuối ngày sang quản lý trạng thái ngoại tệ thường xuyên tại bất kỳ thời điểm nào. Ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Nhật và Singapore đều có sàn giao dịch công cụ tài chính phái sinh tập trung. Thời gian qua giao dịch tài chính phái sinh ở Việt Nam chủ yếu là GDPS trên thị trường ngoại hối như hợp đồng kì hạn, hoán đổi và quyền chọn, đều được thực hiện trên thị trường phi tập trung, dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa KH và NHTM. Do không có thị trường tập trung hoạt động nên tính thanh khoản của các công cụ tài chính phái sinh thấp. KH e ngại khi thấy CCPS như hợp đồng giao sau hay quyền chọn rất khó thanh lý khi cần. Việc giao dịch phi tập trung như hiện nay có nhiều nhược điểm và làm hạn chế nhu cầu giao dịch của KH, thể hiện ở chỗ: Chi phí tìm kiếm thông tin và tìm kiếm KH thương cao nhưng KH giao dịch lại không nhiều, KH rất e ngại vì cho rằng họ không đủ mạnh về kiến thức, chuyên môn, kinh nghiệm…để có thể thương lượng giao dịch bình đẳngvới NH.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 28/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí