Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Và Quản Lý Tài Nguyên – Môi Trường


Ban quản lý là đảm nhiệm việc tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng về bảo vệ tài nguyên biển và môi trường biển; tham gia thẩm định các Dự án phát triển kinh tế - xã hội có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến vịnh cùng với UBND tỉnh Khánh Hòa; tiến hành các hoạt động nghiên cứu về bảo tồn biển; tổ chức thu phí bảo tồn biển theo quy định và tổ chức các dịch vụ bơi lặn biển trong Vịnh Nha Trang.

Tuy hoạt động mới đây nhưng BQL đã có nhiều hoạt động thiết thực để bảo vệ Vịnh Nha Trang, như gồm: xác định các nguồn tài nguyên trong vịnh; nhận định các thách thức, và các mối đe doạ trong quản lý; phân vùng khu vực vịnh để quản lý, giảm thiểu các tác nhân cơ học có thể gây hại cho san hô, giúp trữ lượng cá và các loài thủy sản khác tăng lên; lên kế hoạch quản lý KBTB Vịnh Nha Trang.

Tại những vùng nơi có các bờ biển đặc biệt phát triển như Vịnh Nha Trang thì xung đột đang tiếp tục tăng lên giữa nghề đánh bắt cá, nuôi trồng hải sản và các mục đích sử dụng thủy vực ven biển khác bao gồm nghỉ ngơi giải trí, đổ bỏ chất thải và vận tải biển. Hy sinh bảo tồn để phát triển kinh tế thì không nên vì việc bảo tồn thắng cảnh không chỉ là bảo vệ cái vẻ ở bên ngoài mà là bảo vệ cái bên trong của danh thắng, đó là hệ sinh thái thủy vực, khí hậu, văn hoá … Đó là chưa nói hệ sinh thái ven biển hết sức nhạy cảm, vì vậy việc cải tạo để sử dụng phải hết sức cân nhắc. Du khách đến với Vịnh Nha Trang là muốn tận hưởng một chuyến du lịch sinh thái, môi trường, khám phá thiên nhiên, hòa mình sống với thiên nhiên chứ không chỉ để hưởng thụ những nhà nghỉ tiện nghi, sang trọng ngoài đảo. Chỉ vì phục vụ lợi ích kinh tế, phục vụ những đòi hỏi của con người về sự tiện ích mà thiên nhiên phải gánh chịu những tổn thất nặng nề.

Thông thường những mục đích sử dụng hoàn toàn khác nhau lại có những yêu cầu giống nhau về môi trường: ví dụ cả nuôi trồng hải sản và dịch vụ tắm phục vụ du lịch đều đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng nước cao. Dưới góc độ môi trường thì nói chung các chiến lược sử dụng đa mục đích là có lợi ích lâu dài bởi vì các khả năng lựa chọn được tiếp tục mở rộng và các cơ hội phát triển tương lai không bị mất đi.

Chính vì nhận thức được các thử thách, Ban Quản lý KBTB Vịnh Nha Trang đã thực hiện các hoạt động cụ thể như: quản lý chặt chẽ khoa học hoạt động qui hoạch đô thị và đầu tư xây dựng cơ bản; thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn, công nghiệp


và y tế đồng thời kết hợp với việc quản lý giám sát, hướng dẫn các cơ sở sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại và nhân dân ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường chung trong khu vực Vịnh Nha Trang. Lắp đặt phao neo quanh đảo Hòn Mun cho các tàu du lịch sử dụng để tránh tình trạng thả neo lên rạn san hô. Triển khai phương án ‘Phối hợp quản lý thu gom, vận chuyển rác trên các đảo và các lồng bè nuôi trồng thủy sản trong vịnh về bãi rác thành phố’. BQL đã đầu tư trên 102 triệu để xây dựng các hầm xử lý rác, trang bị 21 thùng đựng rác, 4 xe đẩy chở rác tại các đảo; thuê tàu và 10 nhân công làm việc hàng ngày để thu gom, đưa số rác thải từ các đảo, các khu vực nuôi trồng thủy sản vào đất liền; tổ chức phương tiện để vớt rác trôi nổi trên mặt nước trong vịnh, trước mắt trong vùng lõi KBTB; bắt buộc các tàu thuyền chở khách du lịch trong vịnh phải trang bị thiết bị nhà vệ sinh chuyên dùng bằng công nghệ tự hoại, dụng cụ đựng rác để đưa vào bờ xử lý; đầu tư nâng cấp hệ thống cấp nước sinh hoạt và xử lý nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thoát nước mưa.

Ngoài ra BQL cũng tổ chức tuyên truyền nâng cao trình độ dân trí, ý thức cộng đồng dân cư và du khách về vệ sinh môi trường, về nếp sống văn minh đô thị. BQL đã cho thực hiện chương trình giáo dục toàn diện ở tất cả các trường tiểu học tại các khóm đảo và 2 trường trung học gần cảng Nha Trang. Để thực hiện chương trình này, các giáo viên tham gia giảng dạy được tập huấn và cung cấp trang thiết bị giảng dạy. Song song với hoạt động nâng cao ý thức cộng đồng dân cư địa phương BQL đã đặt trọng tâm hàng đầu vào việc hỗ trợ sinh kế cho người dân địa phương tại các khóm đảo như: tổ chức các khóa đào tạo kỹ thuật hỗ trợ việc làm; thực hiện chương trình tín dụng với sự hợp tác của phường Vĩnh Nguyên và Ngân hàng chính sách xã hội, giúp người dân có vốn để tạo thu nhập; tạo mối quan hệ giữa người dân với các cơ sở sản xuất kinh doanh như công ty đan lưới thể thao hay các cơ sở hàng thủ công mỹ nghệ; thử nghiệm và hỗ trợ triển khai các hoạt động du lịch sinh thái cho người dân, trong đó có hoạt động thúng đáy kính.

Mặt khác, BQL cho đầu tư trồng nhiều cây xanh, thảm cỏ, xây dựng nhiều công viên vui chơi, giải trí. Đầu tư công nghệ xử lý các chất thải hữu cơ và chất rắn. Xây dựng nhiều nhà vệ sinh hợp lý ở các công viên.


Do BQL KBTB Vịnh Nha Trang là đơn vị sự nghiệp có thu nên để tạo nguồn kinh phí duy trì hoạt động lâu dài, UBND tỉnh Khánh Hòa cho phép BQL tổ chức thu phí vệ

sinh đối với các hộ dân sống trên đảo và đang nuôi thủy sản trong vịnh, với mức

5.000đ/tháng/hộ, 1.500đ/lồng nuôi. Dự kiến, mỗi năm nguồn thu này đạt khoảng 99

triệu đồng. Cũng theo quyết định của UBND tỉnh Khánh Hòa, kể từ ngày 1-1-2006 du khách trong và ngoài nước khi tham quan trên vùng biển Vịnh Nha Trang đều phải mua thêm vé thu phí tham quan tại cầu cảng, bến tàu du lịch đưa du khách ra vịnh với giá là 5.000đ/người/lượt (miễn phí cho trẻ em dưới 12 tuổi và du khách đến lưu trú tại khách sạn trên đảo). Ngoài ra, còn thu thêm đối với du khách đến tắm và lặn trong ‘vùng lõi’, là những vùng có giá trị sinh học tập trung cao nhất, cần hạn chế các hoạt động ảnh hưởng để bảo vệ nghiêm ngặt KBTB tại Hòn Mun, mức thu hiện nay là 5.000đ/khách tắm biển và 30.000đ/khách lặn. Tổng doanh thu từ các lệ phí này phải nhập vào ngân sách trung ương và phần ngân sách này được chính quyền dùng để trả lương cho các nhân viên trong BQL và đầu tư các khoản cần chi khác.

Bên cạnh đó, các ban ngành khác cũng phối hợp trong tất cả bộ Luật đều có những điều khoản nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường, yêu cầu mỗi dự án đầu tư, xây dựng phải có báo cáo tác động môi trường trình qua đều phải xin ý kiến của Bộ Văn hóa.

4.6. Giải pháp phát triển du lịch và quản lý tài nguyên – môi trường

4.6.1. Thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý

Những thuận lợi trong công tác quản lý Vịnh Nha Trang theo Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp Nguyễn Thành Sơn là có các văn bản quy định của UBND, sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, ban ngành có liên quan. Có quy định của Chính phủ về việc quản lý vịnh theo Luật Di sản Văn hoá và Môi trường.

Về khó khăn, cũng qua trao đổi với Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp Nguyễn Thành Sơn, khó khăn trong công tác quản lý là: (1) Thẩm quyền quản lý vịnh chưa phù hợp đối với BQL Vịnh Nha Trang; (2) Việc phối hợp với các sở ngành chưa chặt chẽ;

(3) Nguồn tài chính eo hẹp; (4) Dịch vụ quản lý của BQL cũng còn chưa đồng đều, kinh nghiệm còn ít. Chủ yếu là tự nghĩ tự làm; (5) Phương tiện phục vụ cho BQL chưa đầy


đủ; (6) Lương của cán bộ công nhân viên chức còn thấp, chủ yếu từ nguồn lương cơ bản.

Ngoài ra, theo ông Trương Kỉnh – Giám đốc BQL KBTB Vịnh Nha Trang, Vịnh Nha Trang hiện đang gặp những thách thức như: UBND tỉnh đã phê duyệt quy hoạch nuôi trồng thủy sản từ năm 2001-2010. Theo đó, trong KBTB Vịnh Nha Trang không được nuôi thủy sản bằng lồng bè. Nhưng nhiều người dân từ bên ngoài vào KBTB nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch, vẫn nuôi bằng lồng bè, gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, cơ quản quản lý lại chưa có biện pháp tích cực để hướng người dân nuôi trồng theo quy hoạch. Thời gian gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân phát triển các loại hình du lịch trong KBTB cũng như trong Vịnh Nha Trang, Nhưng Sở Thông tin – Du lịch - Thể thao cho biết chưa có quy hoạch chi tiết về phát triển du lịch trong Vịnh Nha Trang. Hiện nay, các cơ quan chức năng như UBND thành phố Nha Trang, Sở Tài nguyên và Môi trường … cũng chưa xác định rõ ranh giới KBTB Vịnh Nha Trang. Đây là một trong những khó khăn cho việc quản lý cũng như phát triển du lịch bền vững trong KBTB Vịnh Nha Trang. Tình trạng hiện nay của Vịnh Nha Trang là hậu quả của công tác quản lý không tốt. Thiếu cơ chế giám sát, kiểm soát chặt chẽ, chưa có cơ chế tham khảo rộng rãi ý kiến của nhân dân đối với các dự án đầu tư. Cần có quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết cho vịnh, trên cơ sở quản lý tổng hợp đới bờ. Những quy hoạch này phải tính đến lợi ích hài Hòa giữa các ngành du lịch, giao thông vận tải, thủy sản…, không làm quy hoạch riêng cho từng ngành hay phục vụ cho từng doanh nghiệp. Vịnh Nha Trang cần có một cơ quan quản lý cụ thể, không nên giao chung chung, chồng chéo nhau. Bên cạnh trách nhiệm, cơ quan đó phải được giao một số thẩm quyền nhất định.

4.6.2. Giải pháp phát triển du lịch và quản lý tài nguyên – môi trường

Với nhu cầu du lịch ngày càng tăng, lượng du khách rất lớn vẫn sẽ tăng trong những năm tiếp theo được thể hiện ở hình 4.14. Như vậy để đáp ứng cho lượng khách du lịch này đồng nghĩa với việc Khánh Hòa nói chung cũng như Vịnh Nha Trang sẽ tiếp tục khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm xây dựng các khu du lịch, resort, nhà hàng, khách sạn đủ tiêu chuẩn để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của du khách từ khắp mọi nơi trên thế giới. Tuy nhiên các vấn đề về các nguồn gây ô nhiễm trong lĩnh vực du


lịch vẫn chưa được giải quyết toàn diện. Áp lực về ô nhiễm môi trường đối với Vịnh Nha Trang là rất lớn.


Hình 4.14. Lượng Khách Dự Kiến Tăng Trong Những Năm Tới



4000


3500


3000


2500


2000


1500


1000


500


0


136 1500

4

902.47


2300


3400


Lượ ng khách (ngàn)


Năm

2000 2005 2010 2015 2020 2025


Từ sự

nhận định trên, các giảp

Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường

pháp mà tác giả nghiên cứu muốn đưa ra là

- Thiếu thông tin đối với những người có liên quan, đặc biệt là đối với người dân địa phương và du khách. Vịnh Nha Trang được biết đến là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới, có nhiều khu vui chơi giải trí … nhiều hơn thông tin Vịnh Nha Trang là một KBTB đầu tiên của Việt Nam do sự đa dạng sinh học cần được bảo vệ của nó. Và ngay cả người dân địa phương trong tỉnh cũng chưa biết hết được những thông tin này, đồng nghĩa với việc những hành động vứt rác bừa bãi hàng ngày khi đến Vịnh Nha Trang cũng đã góp phần gây nên ô nhiễm. Cần có những yêu cầu cụ thể đối với các hành động vô ý của những người đến Vịnh Nha Trang. Những yêu cầu này có thể thông qua bằng nhiều hình thức để truyền đạt đến những người tới vịnh nhưng thuận tiện hơn cả là thông qua các hướng dẫn viên du lịch đối với du khách đến thăm Vịnh Nha Trang. Kết hợp là các hình thức xử phạt tài chính đối với du khách và tăng gấp đôi đối với chủ thuyền. Đối với người dân địa phương kết hợp với các lực lượng dân quân tự vệ xử phạt với các


đối tượng vi phạm và tuyên truyền thông tin bảo vệ môi trường vịnh thông qua các kênh truyền thông của địa phương.

- Việc giảm tốc độ lượng khách du lịch đối với Vịnh Nha Trang là việc làm ít khả thi. Tuy nhiên cũng nên dừng lại ở một tỉ lệ nhất định nào đó, điều này chỉ để các cấp chính quyền có thời gian hoàn thiện các chính sách quản lý một cách có hiệu quả, bằng cách tăng lệ phí vào vịnh, như lệ phí đã được BQL triển khai nhưng với mức phí cao hơn.

- Phân vùng chi tiết đối với vùng nước mặt và các vùng đảo trong vịnh. Chỉ nên để một số đảo được khai thác về du lịch. Phân bố đều lượng khách du lịch đến Vịnh Nha Trang trong mùa cao điểm, không nên tập trung lượng khách ở một nơi. Có thể sử dụng phương thức phân biệt giá cả tại những nơi gần sự đa dạng sinh học, hoặc những nơi có vị trí quan cảnh thiên nhiên đẹp (như đường Trần Phú bên bãi biển Nha Trang). Theo dự báo cơ cấu chi tiêu của khách du lịch đến Khánh Hòa ở bảng 4.8 thì du khách chi tiêu cho việc lưu trú là khá cao, do đó nhằm làm giảm bớt lượng khách tập trung ở những khu du lịch trọng điểm hay ở các trung tâm, chi phí cho lưu trú có thể cao hơn ở những địa điểm khác, như chi phí lưu trú ở đường Phạm Văn Đồng có thể thấp hơn chi phí ở đường Trần Phú mặc dù đối diện đều có thể nhìn thấy biển.


2010


2015


2020

Loại dịch vụ

Tỉ lệ

Giá trị

Tỉ lệ

Giá trị

Tỉ lệ

Giá trị


(%)

(Tỷ đồng)

(%)

(Tỷ đồng)

(%)

(Tỷ đồng)

Ăn uống

26,0

650,000

24,0

1.188,326

22,0

2.340,800

Lưu trú

37,0

925,000

35,0

1.732,976

32,0

3.404,800

Mua sắm

10,0

250,000

11,0

544,650

12,0

1.276,800

du lịch Dịch vụ khác

12,0

15,0

300,000

375,000

14,0

16,0

693,190

792,218

16,0

18,0

1.702,400

1.915,200

Tổng cộng

100,0

2.500,000

100,0

4.951,360

100,0

10.640,000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Phát triển Du lịch và Quản lý tài nguyên thiên nhiên - Môi trường bền vững ở Vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa - 10

Bảng 4.8: Dự báo cơ cấu chi tiêu của khách du lịch đến Khánh Hòa (giá 2006)


Vận chuyển


Nguồn: Viện NCPT Du lịch


- Các dự án khai thác du lịch nên được công khai hội ý với cộng đồng dân cư địa phương tại các khóm đảo và những nơi khác trong tỉnh Khánh Hòa. Cần có một sự thỏa thuận giữa các cấp chính quyền địa phương và những người có mục đích sử dụng chung trong vịnh chấp nhận một hoạt động mới và các tác động của nó.

- Đề ra các quy chế môi trường trong quá trình xây dựng trên các đảo trong khu vực vịnh và trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch của các nhà đầu tư.


CHƯƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


5.1. Kết luận

Vịnh Nha Trang với sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực du lịch, đang trở thành một trong những khu du lịch đạt cấp quốc gia, những khu nhà cao tầng đang mọc lên, những khu resort sang trọng, những khu vui chơi giải trí hiện đại được xây dựng trên những hòn đảo, ở đâu cũng nhìn thấy sự tiện nghi và xứng tầm là nơi nghỉ dưỡng tốt nhất. Ngoài khơi xa không chỉ là những hòn đảo xanh mướt mà trước đây trên đó ít có bất kì dịch vụ du lịch nào đáp ứng các nhu cầu, thay vào đó giờ đây là những khu vui chơi giải trí, resort nghỉ dưỡng ngay trên đảo cùng với nhà hàng với các món hải sản tươi ngon Hàng trăm những con tàu chở hàng ngàn người khách du lịch đến Vịnh Nha Trang thưởng ngoạn cảnh đẹp, nghỉ ngơi, tham gia những trò chơi thể thao thú vị và thưởng thức những món ăn hải sản sau những bộn bề của cuộc sống. Du khách đến với Nha Trang không chỉ nhìn thấy biển xanh cát trắng, những hàng dương chạy tít tắp trên bãi cát mà thay vào đó giờ đây là những khu công viên công cộng với những công trình kiến trúc độc đáo, quang đãng và sáng sủa hơn.

Cùng với nổ lực làm thay đổi cảnh quan để phù hợp với đời sống và nhu cầu của con người, ngược lại thiên nhiên lại phải gánh chịu những tác động mà con người gây ra: san bằng núi, san lấp biển, thay đổi độ nghiêng địa hình, các chất thải không qua xử lý trực tiếp ra môi trường, những người bơi lặn không biết được sự mỏng manh và qua hàng ngàn năm hình thành của san hô cũng vô tình hay cố ý làm gãy san hô. Một nghịch lý đang diễn ra là có những nơi con người đang cố gắng hồi phục lại vài cm san hô, vài m2

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/09/2022