Các Nhân Tố Tác Động Đến Phát Triển Du Lịch

gián tiếp thì ngành du lịch chiếm 10,6% GDP toàn thế giới. Hàng năm ngành này tạo ra 74,2 triệu việc làm, chiếm 2,8% lao động trên toàn cầu [26].

Thực tế cho thấy hoạt động du lịch nó tác động rất mạnh đến cơ cấu cán cân thu, chi của vùng du lịch, của một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở khu vực du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng du lịch và của một đất nước. Nguồn thu nhập ngoại tệ từ khách du lịchh quốc tế của nhiều nước ngày càng tăng. Chẳng hạn ở Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về du lịch quốc tế: Năm 1990, ngành du lịch nước này mang lại nguồn thu là 43 tỷ USD thì đến năm 1996 đã lên tới 64,4 tỷ USD, đến năm 2002 là 80,7 Tỷ USD. Tiếp đến là Tây Ban Nha, năm 1996 thu được 28,4 tỷ USD, năm 2002 con số này lên đến 38,7 tỷ USD. Ở Pháp năm 1996 thu được 28,2 tỷ USD, đến năm 2002 thu được 33,5 tỷ USD [2, tr.11].

Hiện nay du lịch được coi là một thị trường vừa rộng, vừa lớn với nhu cầu du lịch rất đa dạng và khả năng thanh toán của khách hàng khá cao, vừa mang tính đặc thù. Thị trường du lịch hoạt động trong không gian lãnh thổ, thị trường lại hoàn toàn có khả năng “xuất khẩu tại chỗ”, nhiều hàng hoá đặc biệt là hàng hoá mang tính chất đặc trưng của dân tộc phân bố rải rác khắp mọi miền của đất nước như các món ăn dân tộc, đồ lưu niệm (hàng thủ công mỹ nghệ...). Hàng hoá này thường có giá trị sử dụng không đáng kể đối với thị trường nội địa nhưng lại có giá trị cao, thuận lợi lớn do thoả mãn được sở thích hay thị hiếu nào đó của du khách nước ngoài. Mặt khác, có rất nhiều loại hàng hoá phục vụ du khách không thể vận chuyển đi bán ở thị trường thế giới được thì có thể bán với giá cả cao, thu lợi nhuận lớn tại nước mình như cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, di tích lịch sử, công trình văn hoá nổi tiếng, phong tục tập quán đặc sắc...

Ngày nay, ở nhiều nước công nghiệp, thu nhập từ du lịch thường chiếm 20% hoặc cao hơn trong tổng sản phẩm quốc gia (GDP). Hoạt động du lịch tác động đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, xây dựng các nghề thủ công truyền thống, mở rộng thị trường tiêu thụ

hàng hoá, quảng bá sản phẩm của quê hương đất nước mình làm ra đến với bạn bè thế giới, là kênh quảng cáo hữu hiệu ra nước ngoài, giải quyết việc làm cho người lao động làm tăng thêm cơ hội đầu tư…tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển.

- Về mặt xã hội

Du lịch phát triển sẽ góp phần tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, làm giảm thất nghiệp đáng kể, thu hút một số lượng lao động rất lớn, nâng cao mức sống của người dân. Đối với nhiều người, du lịch nhìn nhận như một ngành kinh doanh sinh lợi cao. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi hay chuyển hướng sang kinh doanh du lịch là một động cơ tốt để mọi người trao đổi, bổ sung các kiến thức cần thiết như ngôn ngữ giao tiếp văn hoá, lịch sử...

Du lịch làm cho con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới, mở mang kiến thức. Hoạt động du lịch là một yếu tố đòi hỏi nhiều lao động dịch vụ với nhiều ngành nhiều trình độ khác nhau, do đó du lịch càng phát triển thì càng có nhiều cơ hội tạo việc làm cho xã hội, góp phần giải quyết vấn đề bức xúc nhất hiện nay.

Du lịch phát triển, tạo điều kiện để mở rộng giao lưu văn hoá, tăng cường sự hiểu biết và mở rộng tầm nhìn, học hỏi thêm kinh nghiệm làm ăn buôn bán của nhiều nước, nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, thông qua đó góp phần quan trọng nâng cao dân trí. Tuy những mặt này được tiến hành một cách không chính thức, nhưng thường có hiệu quả cao.

Thông qua sự tiếp xúc trực tiếp và rộng rãi với du khách trong nước và ngoài nước, mà nhân dân ở vùng sở tại, nước sở tại có điều kiện tiếp thu những tinh hoa văn hoá, những lối sống tốt đẹp, phong cách giao tiếp lịch sự văn minh của văn hoá nói chung, ngày càng mở rộng ra những lĩnh vực mang tính nhân văn cao mà trước đây chúng ta thường xem nhẹ như sự hiểu biết và thái độ ứng xử đối với việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống, đối với các công trình văn hoá nghệ thuật của dân tộc, đối với môi trường sinh thái... Thông

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

qua đó, để giáo dục truyền thống dân tộc, lòng tự hào về lịch sử văn hoá đất nước mình, biết bảo vệ các di sản văn hoá, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ danh lam thắng cảnh, bảo vệ môi trường sống của đất nước… Từ đó, tuyên truyền giáo dục cho các thế hệ trong xã hội. Phát triển du lịch góp phần nâng cao dân trí, làm phong phú thêm nhận thức, đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời góp phần mở rộng và củng cố mối quan hệ hợp tác, ngoại giao, giao lưu kinh tế, văn hoá khoa học, kỹ thuật, tạo mối quan hệ thân thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Phát triển du lịch góp phần xoá đói giảm nghèo, làm thay đổi diện mạo của một vùng, một quốc gia ngày càng văn minh và tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên, hạn chế đầu tiên về mặt xã hội khi phát triển du lịch có thể làm phát sinh và gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, ma tuý. Thậm chí, ở một số nước còn tổ chức nhà chứa phục vụ khách. Nguy hiểm hơn, giờ đây còn xuất hiện ngày càng gia tăng nhiều tội phạm về giết người, con cái hư hỏng, đua đòi học theo những thói hư thật xấu, ăn chơi xa đoạ, tha hoá nhân phẩm, nhất là phụ nữ, không đúng với phong tục tập quán của con người Á Châu, dịch vụ karaoke xuất hiện không tuân thủ theo các quy định của Nhà nước… Đây là một số vấn đề biểu hiện xấu của xã hội ngày nay.

Phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Lào giai đoạn 2010-2015 - 4

1.1.4. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch

1.1.4.1.Vị trí địa lý

Đây là một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển du lịch. Vị trí địa lý bao gồm vị trí địa lý về mặt tự nhiên (các chỉ tiêu về giới hạn tọa độ, giới hạn lãnh thổ…) và vị trí địa lý kinh tế - xã hội, chính trị. Đối với hoạt động du lịch, có hai yếu tố về vị trí cần xét đến là điểm đến nằm trong khu vực phát triển về du lịch ở mức độ nào và khoảng cách từ điểm đến tới nơi phát sinh cầu du lịch ngắn hay dài.

1.1.4.2. Tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa - lịch sử cùng các thành phần của chúng có sức hấp dẫn du khách đã, đang và sẽ được khai

thác, cũng như bảo vệ nhằm đáp ứng nhu cầu của du lịch một cách hiệu quả và bền vững.

- Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và mối liên hệ giữa chúng được lôi cuốn vào để phục vụ cho mục đích du lịch. Các yếu tố tự nhiên bao gồm: địa hình, nguồn nước, khí hậu, sinh vật là các yếu tố có ảnh hưởng nhất đến hoạt động du lịch. Trong tài nguyên du lịch tự nhiên thì các di sản thiên nhiên thế giới, công viên địa chất có ý nghĩa quan trong trong phát triển du lịch.

- Tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo ra, hay nói cách khác, nó là đối tượng và hiện tượng được tạo ra một cách nhân tạo. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho tài nguyên du lịch nhân tạo có những đặc điểm khác biệt nhiều so với nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên.

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005) quy định tại điều 13, chương II: “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.

Trong tài nguyên du lịch nhân văn thì các di sản văn hóa vật chất và phi vật thể được UNESSCO công nhận, bảo tồn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển du lịch.

1.1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội và chính trị

a) Dân cư và lao động

Dân cư và lao động là nguồn lực quan trọng của nền sản xuất xã hội. Cùng với hoạt động lao động, dân cư còn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Số dân càng đông thì số người tham gia vào các hoạt động du lịch càng nhiều. Việc nắm vững số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, sự phân bố và mật độ dân có có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch. Ngoài ra, cần nghiên cứu cơ cấu dân cư theo nghề nghiệp, lứa tuổi để xác định nhu cầu nghỉ ngơi du lịch.

b) Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì nhu cầu về du lịch của dân cư càng lớn, chất lượng dịch vụ càng đa dạng.

c) Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội

Du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng chỉ có thể phát triển được trong bầu không khí hòa bình, ổn định trong tình hữu nghĩ giữa các dân tộc. Ngược lại, du lịch có tác dụng ngược trở lại đến việc củng cố hòa bình. Thông qua du lịch quốc tế, con người thể hiện nguyện vọng của mình được sống, lao động trong hòa bình và tình hữu nghị. Điều kiện đảm bảo về y tế trước các dịch bệnh cũng ảnh hưởng lớn đến tâm lý và nhu cầu của du khách. Bên cạnh đó, các tai biến thiên nhiên (động đất, sóng thần…) gây mất an toàn cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách du lịch của cac quốc gia, vùng lãnh thổ.

d) Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch

Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch mang tính chất kinh tế - xã hội và là sản phẩm của sự phát triển xã hội, đó là nhu cầu của con người về khôi phục sức khỏe và khả năng lao động, thể chất và tinh thần bị hao phí trong quá trình sống.

e) Cách mạng khoa học – công nghệ và xu hướng hội nhập quốc tế Những tiến bộ tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trong

thế kỷ XX và sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa là những yếu tố trực tiếp làm nảy sinh nhu cầu và hoạt động du lịch.

f) Đô thị hóa

Trong quá trình đô thị hóa, bên cạnh những đóng góp tích cực, còn rất nhiều mặt trái làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người như tiếng ồn, lao động

căng thẳng… Từ những mặt trái đó, nghỉ ngơi, giải trí trở thành một trong những nhu cầu không thể thay thế được của người dân thành phố. Nhu cầu này đã làm xuất hiện một loạt các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch ngắn ngày đã trở nên phổ biến.

g) Điều kiện sống

Du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống của con người đạt tới trình độ nhất định. Một trong những yếu tố then chốt là mức thu nhập thực tế của mỗi người trong xã hội. Không có mức thu nhập cao thì khó có thể nghĩ đến việc nghỉ ngơi, du lịch. Nhìn chung, ở các nước phát triển có mức thu nhập bình quân trên đầu người cao, nhu cầu và hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ.

h) Thời gian rỗi

Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người thiếu thời gian rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động du lịch. Thời gian rỗi là thời gian cần thiết để con ngưuời nâng cao học vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức năng xã hội, tiếp xúc với bạn bè và vui chơi giải trí.

1.1.4.4. Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển của bất cứ ngành kinh tế nào, du lịch cũng không ngoại lệ bởi nó cần phải có các nền tảng thuận lợi để phục vụ du khách, bao gồm:

- Hệ thống giao thông vận tải

- Hệ thống thông tin liên lạc

- Hệ thống điện và cấp thoát nước

1.1.5. Các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch

Hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch được sử dụng rất khác nhau giữa các nước. Đối với nước ta, trong Báo cáo Quy hoạch tổng thể Du lịch Việt Nam đến năm 2010, các nhà khoa học đã đưa ra 5 cấp phân vị trên quy mô lãnh thổ quốc gia bao gồm: điểm du lịch - trung tâm du lịch - tiểu vùng du lịch - á

vùng du lịch - vùng du lịch. Điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005) còn đưa thêm khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch trong thực tế ở quy mô nhỏ hơn như cấp tỉnh.

1.1.5.1. Điểm du lịch

Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Điểm du lịch có thể phân thành hai loại: điểm tài nguyên và điểm chức năng. Điểm du lịch quốc gia phải đủ các điều kiện sau: có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 100 nghìn lượt khách tham quan một năm. Điểm du lịch địa phương phải đủ các điều kiện: có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 10 nghìn lượt khách tham quan một năm.

1.1.5.2. Tuyến du lịch

Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở liên kết dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Như vậy, để phát triển các tuyến du lịch thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống giao thông và xây dựng các điểm nhấn là các điểm du lịch có sức thu hút. Tuyến du lịch về mặt không gian lãnh thổ có thể chia làm nhiều loại như: tuyến du lịch quốc gia nối các điểm, các khu du lịch có ý nghĩa quốc gia, với các cửa khẩu quốc tế; tuyến du lịch nội vùng; tuyến du lịch liên vùng; các tuyến du lịch địa phương, nội tỉnh…[19]

1.1.5.3. Khu du lịch

Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi

trường”. (Luật Du lịch Việt Nam, 2005) Hiện nay, ở nước ta phổ biến các khu du lịch được xây dựng trên nền tảng các cảnh quan tự nhiên hấp dẫn, các di tích hoặc cụm di tích văn hóa - lịch sử, nơi có các danh lam thắng cảnh… và xây dựng thêm các công trình nhân tạo khác để phục vụ nhu cầu ăn, nghỉ và vui chơi của du khách.

1.1.5.4. Trung tâm du lịch

Đây là một cấp hết sức quan trọng. Đặc trưng của trung tâm du lịch là nguồn tài nguyên du lịch tương đối tập trung và được khai thác một cách cao độ. Trung tâm du lịch có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật tương đối đầy đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để đón, phục vụ và lưu khách lại trong một thời gian dài. Trung tâm du lịch có quy mô nhất định về mặt diện tích, có thể tương đương với lãnh thổ cấp tỉnh hay một thành phố trực thuộc tỉnh. Có hai loại trung tâm du lịch, đó là trung tâm có ý nghĩa quốc gia (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng) và trung tâm có ý nghĩa địa phương (như Cần Thơ…). [19]

1.1.6. Tiêu chí đánh giá

- Số lượng khách du lịch: Về cơ cấu nguồn khách cụ thể số lượng khách nội địa, khách quốc tế đến với địa phương, thời gian lưu trú cụ thể. Về cơ cấu thị trường, phân tích cụ thể khách nội địa chủ yếu ở thị trường nào, khách quốc tế ở thị trường nào.

- Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch: Cơ sở lưu trú gồm có nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ với số lượng phòng, chất lượng phòng ở. Cơ sở ăn uống như số lượng nhà hàng, quán bar.. Cơ sở vui chơi, giải trí, mua sắm gồm các phân tích cụ thể về số lượng chợ, siêu thị, trung tâm mua sắm, sản phẩm đặc trưg của khu vực…

- Doanh thu du lịch: Giá trị đóng góp của du lịch trong GDP cho ngành và cho địa phương…

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 06/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí