Bảng 2.30: Kết quả kiểm định thang đo Cronbach’alpha chi tiết các nhân tố 115
Bảng 2.31: Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA lần hai 116
Bảng 2.32: Tóm tắt các hệ số về mức độ phù hợp mô hìnhModel Summaryb 117
Bảng 2.33: Kết quả phân tích hồi quy Coefficientsa 118
Biểu đồ 2.1 Mạng lưới hoạt động của 11 NHTMCP Việt Nam tính đến 31/12/2019 64
Biểu đồ 3. 1 Tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2015 – 2020 137
Biểu đồ 3.2. Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 138
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
Hình 1.1 Quan hệ giữa chất lượng dịch vụ phi tín dụng và sự hài lòng khách hàng (Spreng và Mackoy, 1996) 39
Hình 2. 1 Hệ số CAR của hệ thống NHTM Việt Nam 69
Hình 2.2 Tỷ lệ ROA và ROE của toàn hệ thống NHTMCP Việt Nam 72
Hình 2.3 Số lượng thẻ và thị phần thẻ của các NHTMCP Việt Nam 103
Hình 2.4 Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ phi tín dụng và sự hài lòng của khách hàng theo mô hình SERVQUAL 107
Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức NHTMCP Việt Nam 62
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ý nghĩa | |
ACB | Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu |
BIDV | Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam |
CN | Cá nhân |
DN | Doanh nghiệp |
DV | Dịch vụ |
DVPTD | |
Eximbank | Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu |
KH | Khách hàng |
MB | Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội |
NH | Ngân hàng |
NHNN | Ngân hàng nhà nước |
NHTM | Ngân hàng thương mại |
NHTMCP | Ngân hàng thương mại cổ phần |
PGD | Phòng giao dịch |
Sacombank | Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín |
SHB | Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- Hà Nội |
TCTD | Tổ chức tín dụng |
VCB | Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam |
Vietinbank | Ngân hàng thuơng mại cổ phần công thương Việt Nam |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển dịch vụ phi tín dụng của các Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam - 1
- Các Nghiên Cứu Về Dịch Vụ Ngân Hàng, Dịch Vụ Phi Tín Dụng Của Nhtm
- Lý Luận Về Dịch Vụ Phi Tín Dụng Của Nhtm
- Các Loại Hình Dịch Vụ Phi Tín Dụng
Xem toàn bộ 239 trang tài liệu này.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, cùng với những thay đổi của môi trường kinh doanh, công nghệ, nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính của người dân, vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính hay việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, sự chuyển dịch mô hình kinh doanh theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đã trở thành xu hướng tất yếu khách quan nhằm củng cố và tăng cường khả năng cạnh tranh, hạn chế rủi ro và tạo nguồn thu nhập bền vững cho ngân hàng.
Dịch bệnh Covid-19 từ cuối năm 2019 đến nay với phạm vi ảnh hưởng trên toàn thế giới cũng những diễn biến khó lường đã để lại hệ quả không nhỏ cho toàn bộ hệ thống tài chính nói chung và đặc biệt là các NHTMCP nói riêng. Hoạt động kinh doanh của các NHTMCP ở Việt Nam trở nên khó khăn hơn, tăng trưởng tín dụng giảm đáng kể so với giai đoạn trước dịch bệnh. Dịch bệnh Covid-19 vừa đặt yêu cầu bức thiết, đồng thời cũng là động lực để đẩy mạnh tiến trình phát triển dịch vụ phi tín dụng tại các NHTMCP, đa dạng hóa và hướng tới số hóa dần các nghiệp vụ phi tín dụng. Việc giảm tăng trưởng tín dụng cũng là cơ hội tốt để các ngân hàng điều chỉnh danh mục cho vay hướng tới một khẩu vị rủi ro mới an toàn và bền vững hơn, giảm tỷ trọng tín dụng, tăng tỷ trọng dịch vụ phi tín dụng.
Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 254/QĐ-TTg, ngày 01/03/2012 có đề cập: “Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTMCP theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng”. Điều đó chứng tỏ, vai trò của các DV phi tín dụng trong việc phát triển bền vững các NHTMCP Việt Nam đã được nhận thức sâu sắc. Việc nghiên cứu sự phát triển của dịch vụ phi tín dụng của các NHTMCP Việt Nam là một trong những vấn đề cấp thiết nhằm tìm hiểu, đánh giá thực trạng của một nhóm tổ chức kinh doanh thương mại đặc biệt nhằm đưa ra những giải pháp có tính khả thi.
Trong những năm vừa qua, dịch vụ phi tín dụng ở các NHTM nhà nước Việt Nam đã có những những bước phát triển vượt bậc cả chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin góp phần tạo ra những sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng, ngân hàng và cả nền kinh tế nhờ tính tiện ích, tiện lợi, nhanh chóng, chính xác và bảo mật. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt gắn với quá trình hội nhập và tự do hoá tài chính hiện nay, việc phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTM nhà nước đang gặp phải nhiều hạn chế, thách thức. So với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, phát triển dịch vụ phi tín dụng ở Việt Nam còn có khoảng cách không nhỏ, các sản phẩm còn chưa đa dạng, chất lượng và tính cạnh tranh của dịch vụ phi tín dụng còn thấp. Bên cạnh đó, định hướng và chiến lược phát triển dịch vụ phi tín dụng còn mang tính tự phát, mô hình tổ chức hoạt động theo từng loại hình dịch vụ còn riêng lẻ... Do vậy, việc nghiên cứu và phát triển các dịch vụ phi tín dụng được coi là một chiến lược cạnh tranh và điều kiện để tồn tại và phát triển bền vững của các NHTM.
Xuất phát từ tình hình và những đòi hỏi khách quan của thực tiễn, Nghiên cứu sinh (NCS) đã chọn đề tài: “Phát triển dịch vụ phi tín dụng của các Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam”.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu
2.1 Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
- Reynold E.Byers, Phillip J.Lederer (2015), A Model of Traditional, Electronic, and Mixed Distribution Choices [70]
Nghiên cứu nhận định thiết kế chiến lược phát triển dịch vụ NHBL gồm mô hình ngân hàng truyền thống, ngân hàng số và sự kết hợp giữa ngân hàng truyền thống và ngân hàng số đóng vai trò quan trọng đối với ngành ngân hàng. Bài báo cũng phân tích tác động của việc ứng dụng công nghệ số đến việc lựa chọn chiến lược phân phối bán lẻ của ngân hàng. Đồng thời, tác giả giới thiệu mô hình nghiên cứu về những ảnh hưởng đến sự lựa chọn chiến lược phân phối NHBL bao gồm các yếu tố về sở thích và thị hiếu của khách hàng cũng như các yếu tố liên quan tới chi phí công nghệ. Phân tích này cho thấy rằng việc thay đổi hành vi và thái độ của
người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn hơn đến việc lựa chọn chiến lược phân phối của ngân hàng so với việc thay đổi cấu trúc chi phí của ngân hàng bằng công nghệ mới. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, 40% tổng số các giao dịch của ngân hàng là các dịch vụ NHBL của khách hàng cá nhân.
Nhìn chung, nghiên cứu đã chỉ ra được những điểm mấu chốt trong việc phát triển dịch vụ NHBL và tác động của công nghệ nói chung đến chiến lược NHBL của các ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng khẳng định vai trò của các dịch vụ ngân hàng hướng tới khách hàng cá nhân. Song, nghiên cứu chưa đưa ra được những giải pháp toàn diện nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng nói chung.
- Ilias Santouridis, Maria Kyritsi (2014)- Investigating the Determinants of Internet Banking Adoption in Greece.[60]
Nghiên cứu tập trung vào các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ứng dụng Internet cùng những thay đổi căn bản việc ứng dụng Internet tạo ra trong cách thức hoạt động kinh doanh của các NHTM. Tại thời điểm thực hiện nghiên cứu là năm 2014, nghiên cứu chỉ ra rằng ứng dụng công nghệ Internet đối với các sản phẩm dịch vụ tài chính có thể sẽ gặp phải sự e ngại của một bộ phận khách hàng trong việc chấp nhận nó như một phương tiện để thực hiện các giao dịch ngân hàng. Nghiên cứu này đã gợi mở cho nhiều công trình của các nhà nghiên cứu và chuyên gia ở nhiều quốc gia sau đó để nghiên cứu việc sử dụng ngân hàng trực tuyến và các yếu tố dẫn đến việc áp dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Nghiên cứu tập trung cụ thể vào việc phân tích hành vi và niềm tin liên quan đến ngân hàng trực tuyến của các khách hàng ở Hy Lạp, để góp phần giải thích về tỷ lệ thâm nhập Internet vào các sản phẩm tài chính tương đối thấp ở quốc gia này.
Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu cụ thể với một DVNH là dịch vụ Internet Banking. Vào thời điểm thực hiện nghiên cứu, Internet Banking còn chưa được sử dụng rộng rãi mặc dù nó giúp cho người sử dụng tiết kiệm thời gian giao dịch với Ngân hàng, thuận tiện để giao dịch tại bất cứ nơi nào trên thế giới với chi phí thấp hơn và độ an toàn cao hơn. Nghiên cứu được thực hiện tại Hy Lạp với mục đích đo lường nhận thức của khách hàng về tính tiện ích, mức độ an toàn, sự yên tâm và hài lòng của khách hàng trong quá trình trải
nghiệm dịch vụ.
Nghiên cứu được tiến hành bằng cách sử dụng một bảng hỏi và phỏng vấn khách hàng đã cho ra kết quả Cronbach's alphadao động từ 0,88 và 0,93.
- Chien-Chiang Lee, Shih-Jui Yang, Chi-Hung Chang (2014) - Non-interest income, profitability, and risk in banking industry. A cross-country analysis [52]
Nghiên cứu đã được nhóm tác giả lựa chọn thực hiện trên một mẫu tương đối lớn gồm 967 ngân hàng thương mại cổ phần của nhiều quốc gia trong khu vực châu Á nhằm chỉ ra mối quan hệ giữa thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng và lợi nhuận của ngân hàng, cũng như mối quan hệ giữa hoạt động phi tín dụng và rủi ro của các Ngân hàng thương mại. Từ đó, nhóm tác giả đã đi đến kết luận: hoạt động phi tín dụng tuy không làm gia tăng lợi nhuận nhưng lại giúp giảm thiểu rủi ro của ngân hàng thương mại. Thu nhập ngoài lãi chịu tác động của hoạt động chuyên sâu Ngân hàng và mức thu nhập của một quốc gia. Tại các nước có thu nhập cao, nguy cơ rủi ro đối với hoạt động ngoài lãi cũng tăng đáng kể so với các nước có thu nhập trung bình hoặc thấp.
Để đa dạng hoá nguồn doanh thu, các Ngân hàng phải gia tăng các dịch vụ cung ứng, điều đó khiến cho khả năng quản lý cũng chịu tác động lớn, nếu sự phát triển không đồng đều sẽ tạo ra sự bất cân đối lớn dẫn đến hệ quả rủi ro cao.
- Tiago Oliveira, Miguel Faria, Manoj Abraham Thomas, Ales Popovic (2014)- Extending the understanding of mobile banking adoption: When UTAUT meets TTF and ITM [76]
Nghiên cứu của nhóm tác giả tập trung vào mô hình về tầm quan trọng và mối quan hệ giữa nhận thức của người sử dụng Mobile Banking (Mbanking), tin tưởng ban đầu trong dịch vụ Mbanking, và sự phù hợp giữa công nghệ và Mbanking. Kết hợp sức mạnh của 3 mô hình: task technology fit (TTF), Usage of technology (UTAUT), Initial trust model (ITM), nghiên cứu cho thấy: điều kiện thuận lợi và ý định hành vi trực tiếp ảnh hưởng MBanking. Đây là điều kiện tiền đề cho sự phát triển công nghệ nhằm phục vụ hành vi tiêu dùng hiện đại. Kết luận của bài nghiên cứu là một trong các kênh tham chiếu có giá trị nhằm đưa ra quyết định cho việc đầu tư các dịch vụ hiện đại của Ngân hàng, đặc biệt cụ thể là Mbanking.
Bên cạnh đó, tác giả đã giải quyết được mối quan hệ giữa TTF, UTAUT và ITM trong việc kết hợp đưa ra kết quả nghiên cứu.
Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu vẫn tập trung ở một mảng dịch vụ Ngân hàng nên chưa thể dựa trên nghiên cứu mà đánh giá tổng thể các dịch vụ khác, đặc biệt là những mảng dịch vụ truyền thống nhằm đưa ra chiến lược phát triển.
- Valeria Arina Balaceanu (2011), Promoting banking services and products, Luận án tiến sĩ kinh tế [79]
Luận án của tác giả đã phân tích các yếu tố của các DV Ngân hàng, sự phát triển của DV Ngân hàng và thị trường DV Ngân hàng. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra những quan điểm về đa dạng hoá DVNH và các chiến lược marketing nhằm tìm ra giải pháp phát triển phù hợp với bối cảnh toàn cầu hoá. Tuy nhiên, nghiên cứu được thực hiện ở Rumani với các đặc điểm sử dụng dịch vụ riêng biệt của khách hàng tại đất nước đó chưa thể dùng để khái quát cho toàn bộ các quốc gia khác.
- Cassy Glesson và Akua Soadwa (2008), Survey of retail bank services in New York.[50]
Nghiên cứu này được thực hiện về dịch vụ NHBL ở Bang New York, Mỹ. Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 207 NHBL trên toàn bang để hiểu rõ thêm về các hàng hóa và sản phẩm dịch vụ mà các ngân hàng này cung cấp cho khách hàng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nghiên cứu đã chỉ ra hơn 10 sản phẩm mà các ngân hàng này cung cấp, chi phí cũng như lợi nhuận mà các hoạt động này mang lại cho các ngân hàng (từ dịch vụ chuyển tiền, cho vay đào tạo tài chính, hỗ trợ thanh toán thuế thu nhập cá nhân…). Nghiên cứu đã chỉ ra một hướng đánh giá dựa trên phương pháp thống kê khảo sát về nhu cầu và khả năng đáp ứng các dịch vụ bán lẻ nói chung của các Ngân hàng trong một khu vực.
- Brunner, A.Decressin, J.Hardy, D.Kudela (2004), Germany's threepillar banking system: Cross-country perspectives in Europe [49]
Nghiên cứu làm rõ khái niệm về dịch vụ NHBL và đưa ra những nghiên cứu định lượng về đóng góp của dịch vụ này trong sự tăng trưởng của các ngân hàng thương mại. Theo đó, NHBL là loại ngân hàng mà ở đó khách hàng cá nhân sử dụng các sản phẩm dịch vụ tại các chi nhánh địa phương của các NHTMCP lớn.