chức vào mùa nóng với nhiệt độ nước biển và không khí trên 200C. Bờ biển ít dốc, môi trường sạch đẹp thì khả năng thu hút khách sẽ lớn.
Du lịch núi : Đây là loại hình du lịch gắn liền với các vùng núi non hiểm trở, thích hợp với những du khách thích khám phá có phần mạo hiểm. Loại hình du lịch này có thể phát triển tốt ở nước ta vì: diện tích ¾ đồi núi, với nóc nhà Đông Dương – Phan Si Păng (3143m), có nhiều khu vực núi non hiểm trở và còn rất hoang sơ...
Du lịch đô thị : Điểm đến của du lịch là các đô thị lớn, nơi có công trình kiến trúc nổi tiếng, các khu thương mại sầm uất, các đầu mối giao thông, các khu vui chơi giải trí hiện đại...
Du lịch thôn quê : Thôn quê là nơi có môi trường trong lành, cảnh vật thanh bình, không gian thoáng đãng. Thôn quê là điểm đến hấp dẫn của du khách, đặc biệt là du khách ở các thành phố, các khu công nghiệp. Về với thôn quê, du khách sẽ cảm nhận được tình cảm chân quê mộc mạc, chân thành, mến khách, cảm thấy được thư giãn, tìm về nguồn cội... tất cả những cái mà cuộc sống đô thị không có được.
Phân loại theo thời gian cuộc hành trình :
Du lịch ngắn ngày : Là loại hình du lịch diễn ra từ 1 đến 3 ngày, chủ yếu tập trung vào các ngày cuối tuần. Như du lịch vào 2 ngày nghỉ thứ 7 và chủ nhật, hoặc các ngày lễ như 30/4 và 1/5, giỗ Tổ Hùng Vương... Đặc điểm của loại hình du lịch này là du khách lựa chọn những điểm đến gần nơi cư trú để không mất quá nhiều thời gian di chuyển.
Du lịch dài ngày : Loại hình du lịch dài ngày gắn liền với các kỳ nghỉ phép hoặc nghỉ đông, nghỉ hè kéo dài vài tuần đến một năm tới những nơi cách xa nơi ở của khách, kể cả trong nước và nước ngoài. Du lịch dài ngày thường là các cuộc đi thám hiểm của các nhà nghiên cứu, các chuyến đi nghỉ dưỡng, các chuyến du lịch bằng thuyền...
Phân loại theo việc sử dụng các phương tiện giao thông :
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển các loại hình du lịch huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang theo hướng bền vững - 1
- Phát triển các loại hình du lịch huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang theo hướng bền vững - 2
- Những Yêu Cầu Phát Triển Các Loại Hình Du Lịch Bền Vững
- Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Huyện Phú Quốc Năm 2010, Dự Báo Năm 2015
- Phát triển các loại hình du lịch huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang theo hướng bền vững - 6
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Du lịch xe đạp : Đây không phải là loại hình du lịch của nước nghèo mà loại hình du lịch thân thiện với thiên nhiên được phổ biến nhiều nhất ở các nước các khu vực có địa hình tương đối bằng phẳng. Du lịch bằng xe đạp thường kéo dài từ 2 đến 3 ngày vào những ngày cuối tuần. Tiện lợi của loại hình du lịch này là du khách có thể xâm nhập dễ dàng với đời sống dân cư bản xứ và đi đến các những khu vực đường sá chưa phát triển. Đây cũng là loại hình kết hợp giữa du lịch và thể thao.
Du lịch ô tô: Do ô tô là phương tiện thông dụng chiếm ưu thế so với các phương tiện khác nên loại hình du lịch này phổ biến, chiếm tỉ trọng cao nhất trong các luồng khách du lịch. Đặc điểm của loại hình du lịch này là giá rẻ, tiếp cận dễ dàng với các điểm du lịch. Giá ô tô không cao nên nhiều nhà cung ứng có thể trang bị được và phục vụ cho du khách.
Du lịch bằng máy bay: Du lịch máy bay là một trong những loại hình tiến tiến nhất đáp ứng nhu cầu của khách đến các nước và các tỉnh thành trên cả nước. Ngày nay, ở nước ta, ngành hàng không phát trển tương đối mạnh, với các hãng Vietnam airline, Jetstar airline, Pucific airline... đã góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển.
Du lịch bằng tàu hỏa: Sự phát minh ra đầu máy hơi nước vào đầu thế kỷ XIX đã đánh dấu bước bứt phá mãnh mẽ đầu tiên trong việc đi lại. Xã hội đã dần dần coi tàu hỏa hơi nước là một phương tiện đi lại được ưa chuộng. Ưu điểm của loại hình vận chuyển này còn ở chỗ chi phí vận chuyển tương đối thấp, mặt khác hành trình bằng tàu hỏa không làm hao tốn sức khỏe của du khách, tiết kiệm thời gian đi lại vì có thể thực hiện hành trình vào ban đêm. Ngoài ra, ngồi trên các chuyến tàu, du khách cũng có thể chiêm ngưỡng cảnh vật hai bên.
Du lịch tàu thủy: Đầu thế kỷ XIX, tàu thủy lần đầu tiên được đưa vào phục vụ du lịch với chuyến đi vượt đại dương ở Anh quốc. Ngày nay, nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều tàu du lịch đã ra đời với đầy đủ tiện nghi như phòng ăn, phòng ngủ, bar, phòng hòa nhạc, sân thể thao, bể bơi, thậm chí có cả sân bay. Loại hình du lịch này đang là mốt thời thượng của các nước giàu có. Ưu điểm của loại hình du lịch này là du khách có thể sống thoải mái dài ngày trên thuyền, luôn được hưởng một bầu không khí trong lành và được tham quan nhiều địa điểm trong một chuyến đi.
Phân loại theo hình thức tổ chức :
Du lịch có tổ chức theo đoàn : Là loại hình du lịch có sự chuẩn bị chương trình từ trước hay thông qua các tổ chức du lịch. Mỗi thành viên trong đoàn biết được kế hoạch của chuyến đi du lịch của mình. Đặc điểm của loại hình này trình độ du khách đồng đều, việc phục vụ cũng trở nên dễ dàng theo mẫu chuẩn. Trong toàn bộ quá trình bán sản phẩm, từ khâu tiếp thị đến khâu ăn nghỉ, hướng dẫn, thanh lí hợp đồng, nhà cung ứng đều nhận được sự giúp đỡ rất có hiệu quả về tổ chức của đại diện tập thể khách.
Du lịch cá nhân: Cá nhân tự định ra chuyến đi, kế hoạch lưu trú, địa điểm ăn uống tùy nghi. Loại hình này phát triển với tốc độ nhanh và chiếm ưu thế. Phải trả hơn 15 -20 % giá
hợp đồng tập thể. Trong những năm gần đây, một số công ty đã mở ra một phương thức mới để hỗ trợ và thu hút loại du khách đi theo hình thức này như các open tours.
Du lịch gia đình: Loại thứ nhất thường xuyên ở các khu vực phụ cận đô thị, thời gian chuyến đi không dài thậm chí 1-2 ngày; Loại thứ 2 là những chuyến đi du lịch dài ngày, họ thường chọn địa điểm ở xa, nổi tiếng và để tiết kiệm thời gian trong chuyến đi thì họ thường muốn được đi nhiều điểm. Hiện này loại hình này mới chỉ là hiện tượng xã hội mà chưa có ý nghĩa kinh tế nhiều. Việc tiếp cận và thu hút du khách để kinh doanh loại hình du lịch này đang là hướng cần quan tâm vì du lịch gia đình cũng là một xu hướng nhiều triển vọng.
Ngoài ra, còn có cách phân chia loại hình du lịch : Du lịch theo lứa tuổi (du lịch thiếu nhi, học sinh, du lịch cho người già...); Du lịch theo vị trí địa lí (du lịch miền núi, miền biển, thành phố, nông thôn); Du lịch theo phương thức hợp đồng (du lịch trọn gói, du lịch từng phần).
1.1.4.Tài nguyên du lịch
Quan điểm : Du lịch là một trong những ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ du lịch, đến việc hình thành, chuyên môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của hoạt động du lịch. Tất nhiên, những ảnh hưởng này chịu sự chi phối của các nhân tố kinh tế - xã hội (phương thức sản xuất và tính chất của quan hệ sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - văn hóa và nhu cầu du lịch…). Về thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các sản phẩm và các phương tiện của nhiều ngành khác cùng tham gia, các đối tượng văn hóa – lịch sử đã được trùng tu ở một mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch. Khi được đưa vào sử dụng, chúng trở thành sản phẩm du lịch.
Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử : Do những thay đổi về cơ cấu, chất lượng và nhu cầu đã lôi cuốn những thành phần mới của tự nhiên, sản phẩm xã hội và văn hóa – lịch sử vào các hoạt động du lịch. Nó cũng là một tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ, sự cần thiết về kinh tế, tính hợp lý và mức độ nghiên cứu. Vì vậy, khi đánh giá tài nguyên du lịch và xác định hướng khai thác, cần phải tính đến những thay đổi trong tương lai về nhu cầu cũng như khả năng kinh tế - kỹ thuật để khai thác các loại tài nguyên du lịch, biến chúng trở thành sản phẩm du lịch.
Từ những đặc điểm trên, tài nguyên du lịch có thể được định nghĩa như sau : “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa, lịch sử cùng với các thành phần của chúng
được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp hay gián tiếp hoặc cho việc tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí lực cũng như khả năng lao động và sức khỏe của con người”.
Tài nguyên đối với mỗi loại hình du lịch có những đặc trưng riêng. Khối lượng, diện tích, phân bố, sự kết hợp tài nguyên, khả năng khai thác, đầu tư, tính bền vững của tài nguyên tạo nên những khác biệt về lợi thế du lịch của mỗi khu vực lãnh thổ. Theo đó, loại hình sản phẩm du lịch cũng phong phú và đa dạng, chúng có những nét đặc trưng riêng. Tài nguyên được chia thành hai loại :
Tài nguyên du lịch tự nhiên : Là các đối tượng, các hiện tượng trong môi trường tự nhiên xung quanh chúng ta được sử dụng vào các việc phục vụ cho mục đích du lịch. Các thành phần tự nhiên với tư cách là tài nguyên du lịch có tác động mạnh đến hoạt động này bao gồm: địa hình, khí hậu, nguồn nước và động – thực vật, từ đó, có nhiều loại hình du lịch, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch có nguồn gốc tự nhiên như: Địa hình (địa hình bờ biển, địa hình hang động caxtơ, địa hình đảo và ven bờ, địa hình núi lửa, địa hình núi...); Khí hậu (khí tượng, thời tiết đặc biệt, các hiện tượng thiên văn bất thường...); Thủy văn (sông, hồ, thác nước ...); Cảnh quan tự nhiên (rừng, bờ biển, vườn cây ăn quả, vườn quốc gia...); Các di sản thiên nhiên…
Tài nguyên du lịch nhân văn : Tài nguyên du lịch nhân văn mang nhiều ý nghĩa : nó không những mang ý nghĩa khám phá, nghiên cứu, nhận thức, chiêm ngưỡng, giải trí... mà còn có ý nghĩa tiêu thụ trực tiếp hoặc gián tiếp các loại sản phẩm vật chất và phi vật chất.
1.1.5.Sản phẩm du lịch
Khái niệm : Điều 4 chương 1, luật du lịch Việt Nam khẳng định : “Sản phẩm du lịch là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều thành phần không đồng nhất cấu tạo thành. Đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch".
Hiểu một cách đơn giản :1
Sản phẩm du lịch = tài nguyên du lịch được khai thác và sử dụng + các dịch vụ và hàng hóa du lich + dịch vụ du lịch
Điểm chung nhất mà sản phẩm du lịch mang lại cho du khách chính là sự hài lòng. Nhưng đó không phải là sự hài lòng như khi ta mua sắm một hàng hóa vật chất mà ở đây sự
hài lòng là do đượ1c trải qua một khoảng thời gian thú vị, tồn tại trong ký ức của du khách khi kết thúc chuyến đi du lịch. Vậy để thu hút và lưu giữ khách du lịch, chúng ta phải tổ chức các dịch vụ ở những nơi có khí hậu thuận lợi, có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo và đồng thời cả những nơi có các di tích lịch sử, các viện bảo tàng...
Đặc điểm : Sản phẩm du lịch có những đặc điểm riêng biệt khác với các sản phẩm của các kinh tế ngành khác: Sản phẩm du lịch hữu hình gồm những sản phẩm mà ta có thể nhìn thấy, sờ nắm, cân đong đo đếm và sản phẩm vô hình thể hiện ở kinh nghiệm tổ chức, thái độ phục vụ, môi trường sinh hoạt đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, văn hóa vì vậy sản phẩm du lịch có những đặc điểm sau :
Sản phẩm du lịch về cơ bản là sản phẩm không cụ thể : Thực ra nó là kinh nghiệm du lịch hơn là một món hàng cụ thể (mặc dù trong cấu thành sản phẩm của du lịch có cả hàng hóa). Do đó, không đặt ra vấn đề nhãn hiệu hàng hóa. Vì vậy, sản phẩm du lịch dễ bị bắt chước. Ví dụ, người ta có thể sao chép chương trình du lịch, loại hình du lịch, cách bày trí phòng đón hay một quy trình phục vụ... từ địa điểm này đến địa điểm khác. Ngoài ra, do tính chất của sản phẩm du lịch là không cụ thể, do đó, không thể kiểm tra chất lượng trước khi mua. Đối với những người lần đầu tiếp xúc với các sản phẩm du lịch thì rất khó để lựa chọn, nên quảng bá sản phẩm đóng một vai trò rất quan trọng trong phát triển du lịch.
Sản phẩm du lịch không có tính lưu trữ : Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch diễn ra cùng một thời điểm nơi sản xuất ra chúng. Sản phẩm du lịch được bán trong một thời gian nhất định, nó không có khả năng dự trữ. Vì vậy, nếu không bán được sản phẩm coi như đã bị thiệt hại không thể bù đắp được. Sản phẩm du lịch không có tính lưu trữ được nên ngành du lịch, các công ty lữ hành du lịch muốn phát triển được tốt, đạt doanh số cao thì phải hướng vào du khách, tăng cường tiếp thị để bán các sản phẩm du lịch được nhiều nhất. Đồng thời phải trên quan điểm coi du khách thực sự là " thượng đế" và đảm bảo sức chứa nơi đến, nhằm phát triển du lịch bền vững.
Tính cố định : Việc tiêu dùng các sản phẩm du lịch diễn ra song song trong thời gian và không gian sản xuất của chúng. Vì vậy, du khách muốn thưởng ngoại cái đẹp, tiêu dùng các sản phẩm du lịch thì phải tổ chức đưa họ đến địa điểm du lịch nhất định, chứ không thể vận chuyển sản phẩm "điểm du lịch, tour du lịch, trung tâm du lịch" đi nơi khác được. Ngoài ra, việc tiêu dùng các sản phẩm du lịch của du khách chỉ mang tính tạm thời chứ không thể
1 Giáo trình tổng quan du lịch của Ths Trần Thị Thúy Lan
chuyển nhượng quyền sở hữu sản phẩm du lịch cho du khách được. Sản phẩm du lịch mang tính "cố định", vì vậy công tác tuyên truyền, quảng bá các thông tin về sản phẩm du lịch càng tốt thì càng tạo điều kiện cho việc kinh doanh du lịch đạt hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời tuyên truyền quảng cáo cũng giúp cho việc đưa nhanh các sản phẩm du lịch đến du khách.
Tính dao động: Các sản phẩm du lịch bị chi phối bởi nhiều nhân tố khác nhau, nếu chỉ thiếu một điều kiện cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình thay đổi sản phẩm du lịch, làm ảnh hưởng tới giá trị sản phẩm du lịch. Do tính dễ dàng dao động về sản phẩm và tiêu thụ, nơi tới du lịch phải tuân thủ quy luật phát triển theo tỉ lệ làm tốt công tác quy hoạch du lịch, thiết lập và xử lý đúng đắn quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận, giữa các yếu tố. Các tổ chức kinh doanh du lịch cần lấy sự thay đổi nhu cầu thị trường làm căn cứ, xác lập sách lược kinh doanh, tiêu thụ linh hoạt, thúc đẩy việc thực hiện giá trị sản phẩm du lịch.
Tính thời vụ : Các sản phẩm du lịch có thể sử dụng theo thời vụ. Thứ nhất là do đặc điểm của sản phẩm du lịch mang tính mùa vụ. Chẳng hạn như các sản phẩm du lịch tự nhiên. Ví dụ: Mùa hè : các sản phẩm du lịch như tắm biển, bơi lặn, lướt sóng... Mùa đông có các sản phẩm du lịch đặc trưng như trượt tuyết (đối với các nước cận nhiệt và ôn đới). Thứ hai, các sản phẩm du lịch mang tính thời vụ còn do bản thân du khách thường được nghỉ phép, nghỉ hè, lễ tết trong một số thời gian nhất định. Điều đó làm cho việc khai thác các sản phẩm du lịch tăng nhanh chóng. Vì vậy, đòi hỏi sự tổ chức các tuyến du lịch, các dịch vụ vận chuyển, khách sạn nhà hàng cần phải có sự chuẩn bị chu đáo để phục vụ du khách tốt nhất, thu được hiệu quả cao về mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
Tóm lại, sản phẩm du lịch được phân thành 6 loại như sau: Sản phẩm du lịch của một quần thể địa lý ; Sản phẩm chìa khóa trao tay; Sản phẩm du lịch dạng trung tâm; Sản phẩm du lịch dạng biến cố; Những sản phẩm du lịch đặc biệt
1.1.6.Phát triển du lịch bền vững
Năm 1996, Chương trình Nghị sự 21 về Du lịch: Hướng tới phát triển bền vững về môi trường của Hội đồng Lữ hành Du lịch Thế giới (WTTC), Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) và Hội đồng Trái đất (Earth Council) đã đề ra 10 nguyên tắc chủ đạo cho toàn ngành nhằm đảm bảo phát triển du lịch bền vững gồm:
- Du lịch phải hỗ trợ nhân dân sống một cách lành mạnh, hữu ích và hài hòa với thiên nhiên
- Du lịch phải góp phần giữ gìn, bảo vệ và khôi phục hệ sinh thái của Trái đất
- Du lịch phải dựa trên sự bền vững về sản xuất và tiêu dùng
- Phải loại bỏ hoặc hạn chế việc bảo hộ kinh doanh dịch vụ du lịch
- Bảo vệ môi trường không thể tách rời với quá trình phát triển du lịch
- Cần có sự tham gia của cộng đồng địa phương cùng sự nghiên cứu kỹ lượng về bản sắc văn hóa bản địa khi đưa ra các quyết định liên quan đến phát triển du lịch
- Du lịch phải tranh thủ mọi khả năng để tạo việc làm cho phụ nữ và người dân bản xứ
- Phát triển du lịch phải gắn liền với việc thừa nhận và ủng hộ bản sắc văn hóa cũng như nhu cầu của người dân bản xứ
- Phải tôn trọng các điều luật quốc tế về bảo vệ môi trường
- Các nước cần thông báo cho nhau về những thiên tai có thể gây ảnh hưởng xấu cho du khách hoặc điểm du lịch
1.1.7.Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng là nhân tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch tại điểm đến. Kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống các mạng lưới phương tiện giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát nước và xử lý rác thải… trong đó giao thông vận tải là nhân tố quan trọng hàng đầu.
Giao thông vận tải ảnh hưởng đến sự phát triển và phân vùng du lịch trên cả hai phương diện: số lượng, chất lượng của các loại hình và phương tiện giao thông vận tải. Do đặc thù của hoạt động du lịch là sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất định vì vậy nó phụ thuộc nhiều vào giao thông. Chiều dài của mạng lưới giao thông vận tải chứng tỏ mức độ dễ hay khó trong việc tiếp cận điểm du lịch, số lượng phương tiện giao thông vận tải chứng tỏ khả năng vận chuyển hành khách. Số lượng loại hình vận chuyển gia tăng sẽ làm cho hoạt động du lịch trở nên tiện lợi và linh hoạt, có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu của du khách. Về mặt chất lượng vận chuyển cần xét đến 4 khía cạnh là: tốc độ, an toàn, tiện nghi và giá cả.
Thông tin liên lạc là một phần quan trọng trong cơ sở hạ tầng của hoạt động du lịch, là điều kiện cần thiết để đảm bảo giao lưu cho khách du lịch trong nước và quốc tế. Đối với hoạt động du lịch, thông tin liên lạc không những đảm nhận việc chuyển các tin tức một
cách nhanh chóng, kịp thời góp phần thực hiện các mối giao lưu giữa các vùng, các quốc gia mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá du lịch. Thông tin, hình ảnh của các điểm du lịch được quảng bá rộng khắp sẽ tạo lực hút, kích thích nhu cầu của khách du lịch tiềm năng muốn khám phá vẻ đẹp và các giá trị của điểm du lịch đó. Nhân tố này ngày càng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của ngành du lịch, đặc biệt là trong thời đại thông tin hiện nay.
Hệ thống điện, thiết bị xử lý cấp thoát nước, xử lý rác thải vừa góp phần tạo ra những điều kiện đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho du khách và các hoạt động du lịch vừa tạo ra môi trường trong sạch hấp dẫn du khách.
Cơ sở vật chất kỹ thuật (CSVCKT) du lịch là yếu tố có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và cung cấp các sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu của du khách như lưu trú, ăn uống, đi lại, vui chơi, giải trí, chữa bệnh, mua sắm. Sự kết hợp hài hòa giữa tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch giúp cho sự hoạt động có hiệu quả của cơ sở phục vụ du lịch, kéo dài thời gian sử dụng chúng trong năm. Tài nguyên du lịch là căn cứ để bố trí hợp lý CSVCKT trên các vùng lãnh thổ và là tiền đề căn bản để hình thành các trung tâm du lịch. Ngược lại, cơ sở phục vụ du lịch cũng có tác động nhất định tới mật độ sử dụng tài nguyên du lịch, giữ gìn bảo vệ chúng và đến lượt mình, CSVCKT du lịch lại có thể tạo ra, thực hiện các sản phẩm du lịch. Có 3 tiêu chí để đánh giá hiệu quả của CSVCKT du lịch đó là: Đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho nghỉ ngơi du lịch; Hiệu quả kinh tế tối ưu trong xây dựng và khai thác; Thuận tiện cho du khách.
Cơ sở phục vụ ăn uống lưu trú: là thành phần đặc trưng nhất trong toàn bộ hệ thống CSVCKT du lịch gồm những công trình đặc biệt nhằm đảm bảo nơi ăn nghỉ và giải trí cho khách du lịch. Đó là các cơ sở lưu trú du lịch xã hội, nhà hàng, khách sạn…
Mạng lưới cửa hàng thương nghiệp: đáp ứng về nhu cầu hàng hóa của khách du lịch thông qua việc bày bán các mặt hàng đặc trưng của du lịch, hàng thực phẩm và các hàng hóa khác.
Cơ sở thể thao: tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của du khách, làm tăng hiệu quả sử dụng của các cơ sở lưu trú, phục vụ ăn uống và làm phong phú thêm các loại hình hoạt động du lịch.