Yêu Cầu Và Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam

ra cơ chế điều chỉnh pháp luật hiệu quả đối với mỗi hành vi, đặc biệt là đối với các hành vi CTKLM. Từ thực tiễn cạnh tranh trên thị trường ngân hàng cho thấy, vai trò của Luật Cạnh tranh chưa phát huy được tác dụng kiểm soát, điều tiết hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Trong những năm gần đây, thị trường dịch vụ ngân hàng bùng nổ cạnh tranh khốc liệt, nhưng những quy phạm của pháp luật cạnh tranh gần như chỉ có tính tham khảo cho các TCTD. Điều đó thể hiện vai trò mờ nhạt của Luật Cạnh tranh, khi mà các chủ thể coi đó không phải là một “chiếc gậy” pháp lý cần tránh, mà chỉ khi nào vi phạm quá rõ ràng, bị nhắc nhở thì mới tạm ngừng hành vi. Điều này có thể kết luận rằng, cần thiết phải có một cơ chế bảo đảm để Luật Cạnh tranh phát huy tác dụng của nó trong đời sống xã hội.

Trong hệ thống pháp luật cạnh tranh hiện hành, dường như đang thiếu những hướng dẫn thi hành đối với hành vi CTKLM. Hiện nay, ngoài Luật Cạnh tranh và Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, thì thực tế cho thấy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết còn thiếu. Hiện những dạng văn bản này vừa ít và cũng chỉ dừng lại ở mức định tính do chưa thể định lượng, nên đây cũng là một khó khăn cho việc áp dụng pháp luật cạnh tranh trong thực tiễn.

Thứ hai, như đã phân tích ở trên, hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật các TCTD và các văn bản pháp luật có liên quan). Vì vậy, nếu xảy ra một hành vi CTKLM giữa các ngân hàng thương mại và có ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh thì nguyên tắc áp dụng pháp luật sẽ được xác định thế nào, đặc biệt trong trường hợp có sự khác nhau về nội dung điều chỉnh giữa chúng?

Khoản 1 Điều 5 Luật Cạnh tranh đưa ra nguyên tắc áp dụng pháp luật cạnh tranh trong trường hợp các luật chuyên ngành có quy định khác về các

hành vi cạnh tranh thì áp dụng quy định của luật này. Mặc dù đây là một nguyên tắc mang tính giải quyết sự mâu thuẫn trong áp dụng luật, nhưng thực tế, tại Luật các TCTD và Dự thảo Nghị định đều đưa ra những quy định mang tính bổ sung thêm về hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng và chỉ ra rằng, khi áp dụng pháp luật về những hành vi này, cơ quan xử lý vụ việc cạnh tranh phải xin ý kiến của NHNN. Như vậy, trong trường hợp này nguyên tắc áp dụng pháp luật tại khoản 1 Điều 5 của Luật Cạnh tranh khó có thể thực hiện được.

Thứ ba, những tồn tại xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Do ảnh hưởng bởi các điều kiện lịch sử – chính trị, các NHTM Nhà nước ở Việt Nam hiện đang chiếm giữ gần 70% tổng nguồn vốn huy động và khoảng 80% thị phần tín dụng cả nước, nhưng cơ bản vẫn là một hệ thống yếu kém về năng lực cạnh tranh so với các NHTM trên thế giới. Việc mở cửa hội nhập với bên ngoài buộc Việt Nam phải chấp nhận xu thế cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các NHTM trong nước với nhau và giữa các NHTM trong nước với các NHTM nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, Nhà

nước đã không hề buông xuôi để cho “bàn tay vô hình” của thị trường tự do điều chỉnh, mà bằng chứng là pháp luật hiện hành vẫn có những điều khoản thể hiện mục đích duy trì vai trò chủ đạo, chủ lực của các NHTM Nhà nước trong thị trường dịch vụ ngân hàng.

Theo quy định của Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 xác định: Các NHTM Nhà nước và các NHTM cổ phần chi phối của Nhà nước đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong hệ thống ngân hàng về quy mô hoạt động, năng lực tài chính, công nghệ, quản lý và hiệu quả kinh doanh. Các NHTM Nhà nước cùng với NHTM cổ phần trong nước đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Các TCTD nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng khác góp phần bảo đảm sự phát triển hoàn chỉnh, an toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các NHTM Việt Nam với chất lượng dịch vụ cao và thương hiệu mạnh này dường như xác nhận, Nhà nước vẫn coi trọng và dành một “khu vực riêng” các NHTM Nhà nước, vậy có phải Nhà nước đã gián tiếp thừa nhận vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền NHTM Nhà nước trên thị trường ngân hàng? Việc thực hiện chủ trương này có thể sẽ tạo ra những rào cản nhất định đối với quá trình thực thi Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, mà hệ quả là có thể sẽ làm chậm lại quá trình xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và bình đẳng thực sự giữa các TCTD đang hoạt động tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, như đã phân tích, trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, vì mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các TCTD bằng việc quy định lãi suất cơ bản và lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu; ấn định tỉ lệ dự trữ bắt buộc; áp dụng chế độ kiểm soát đặc biệt… Song đôi khi, sự can thiệp của cơ quan công quyền đặc biệt này còn có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh cho một vài TCTD so với các đối thủ khác trên thị trường và điều đó dường như có ảnh hưởng không tốt đến sự vận hành bình thường của quy luật cạnh tranh. Ví dụ, khi một TCTD có nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản, Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp để “cứu” doanh nghiệp này bằng cách “bơm” thêm vốn cho nó thông qua cơ chế cho vay, hoặc buộc TCTD phải tiến hành một số cải cách mạnh mẽ, triệt để trên nhiều lĩnh vực để khôi phục dần khả năng hoạt động trên thị trường thông qua việc áp dụng chế độ kiểm soát đặc biệt [39].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

Vì vậy, có thể nhận định rằng, việc khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên đây trong quá trình áp dụng pháp luật cạnh tranh vào lĩnh vực dịch vụ ngân hàng là vấn đề phức tạp.

Thứ tư, những tồn tại từ ý thức pháp luật. Nhận thức pháp luật, ý thức, văn hóa tuân thủ pháp luật của con người có vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện pháp luật cạnh tranh đối với tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến việc các chủ thể tham gia thị trường ngân hàng chưa thực hiện nghiêm và đầy đủ quy định của pháp luật cạnh tranh chính là xuất phát từ ý thức tuân thủ pháp luật còn yếu kém, hạn chế về hiểu biết pháp luật.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 12

Nguyên nhân thứ nhất, do các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng chưa quan tâm, tìm hiểu nghiêm túc đến sự hiện diện, vai trò của Luật Cạnh tranh trong đời sống xã hội dẫn đến không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật cạnh tranh như lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện các hành vi CTKLM (ví dụ hoạt động khuyến mại, quảng cáo nhằm mục đích CTKLM…); không tuân thủ, chủ động áp dụng pháp luật cạnh tranh trước các hành vi CTKLM mà lựa chọn các cách giải quyết khác như đàm phán, giải quyết bằng con đường hành chính…

Nguyên nhân thứ hai, do ý thức tuân thủ pháp luật của những cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc thực thi pháp luật, do đó dẫn đến tình trạng nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành chưa thực sự phối hợp với cơ quan giải quyết cạnh tranh (Cục Quản lý cạnh tranh). Trong nguyên nhân này cũng có một yếu tố chi phối đó chính là công cụ pháp lý để bảo đảm tính thực thi của Luật Cạnh tranh còn yếu, lực lượng con người còn mỏng.

Nguyên nhân thứ ba, là do ý thức người dân về pháp luật cạnh tranh còn hạn chế. Bên cạnh vai trò bảo đảm sự hoạt động hiệu quả của các chủ thể tham gia thị trường, phát huy quyền tự do kinh doanh thông qua thị trường và bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh thì một trong những mục tiêu quan trọng của Luật Cạnh tranh chính là mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng. Người tiêu dùng được Luật Cạnh tranh bảo vệ trong vai trò là một tác

nhân ảnh hưởng quan trọng đến quá trình cạnh tranh trên thị trường, là đối tượng thu hút của cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Người tiêu dùng trên thị trường chính là lực lượng chiếm số lượng đông đảo, đại đa số, do đó người tiêu dùng có vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy, thực thi pháp luật cạnh tranh.

Tiểu kết Chương 2

Thực tiễn thị trường ngân hàng những năm gần đây cho thấy, các hành vi CTKLM phổ biến nhất là khuyến mại nhằm CTKLM, quảng cáo nhằm CTKLM và chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Tỷ lệ vi phạm lần lượt là 45%, 35% và 25%. Trong đó, hành vi CTKLM đáng kể nhất được giới quản trị ngân hàng phản ánh nhiều nhất là khuyến mại không lành mạnh trong hoạt động huy động - cho vay của các ngân hàng. Các hành vi gây rối trực tiếp hoặc gây nhiễu loạn thông tin (“gây rối hoạt động kinh doanh”, “ép buộc trong kinh doanh”, “gièm pha doanh nghiệp khác”) trong hoạt động ngân hàng xảy ra với tỷ lệ thấp hơn (10 - 15%). Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một vụ việc CTKLM nào trong lĩnh vực ngân hàng được báo lên Cục Quản lý cạnh tranh để điều tra, xử lý.

Luật Cạnh tranh năm 2004 là đạo luật chung điều chỉnh về quan hệ cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được áp dụng cho tất cả các đối tượng chủ thể tham gia quan hệ pháp luật cạnh tranh ở các lĩnh vực khác nhau. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh quy định tại Luật Cạnh tranh như một thước đo chung để áp dụng cho các hành vi cạnh tranh CTKLM trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế. Vì vậy, các quy định về hành vi CTKLM Luật Cạnh tranh được áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng theo hai hình thức là áp dụng trực tiếp và/hoặc được hướng dẫn áp dụng cùng những quy định pháp lý chuyên ngành ngân hàng liên quan đến việc điều chỉnh các hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Luật các TCTD năm 2010 đã cụ thể hóa nhiều quy định của Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng nhằm bảo đảm tính phù hợp giữa luật chung và luật chuyên ngành, bảo đảm hoạt động kiểm soát, quản lý các hành vi cạnh tranh trên thị trường một cách tốt nhất. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nổi trội, Luật các TCTD năm 2010 vẫn còn một số bất cập, hạn chế khi quy định về các hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng và cơ chế xử lý hiệu quả.

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM CHỒNG HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNHCỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM


3.1. YÊU CẦU VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

3.1.1. Xu thế phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng thương mại ở thị trường Việt Nam

Trước hết, trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế được coi là xu hướng chủ đạo chi phối sự phát triển của ngành ngân hàng trong 10 năm tới, đem lại nhiều cơ hội cho sự phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi hội nhập ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu của người dân ngày càng đa dạng, thì các NHTM đều đang cố gắng mở rộng thị phần, tiếp cận một lượng lớn người dân chưa biết đến các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Do đó, xu hướng khai thác dịch vụ ngân hàng bán lẻ là một xu thế tất yếu của ngành ngân hàng Việt Nam. Trên thực tế, các NHTM Việt Nam cũng đã bước đầu tập trung khai thác thị trường bán lẻ thông qua việc mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến các cá nhân, hộ gia đình các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ngân hàng, phát triển các loại dịch vụ mới, đa tiện ích như Internet Banking, Home Banking, PC Banking, Mobile Banking….

Thứ hai, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là xu hướng hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức đã khiến nhu cầu về các dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Cùng với đó là sự cải tổ nhanh chóng về chất lượng của các dịch vụ dựa trên khoa học - kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là sự phát triển của mạng lưới công nghệ thông tin,

mạng internet trên toàn cầu đã cho ra đời các dịch vụ ngân hàng hiện đại, việc ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển các kênh phân phối đang là một trong những giải pháp mang tính tiên quyết cho phát triển. Tại Việt Nam, gần 50 năm phát triển vừa qua, hầu hết các ngân hàng mới chỉ có duy nhất kênh phân phối truyền thống - hệ thống chi nhánh, hiện nay đã xuất hiện những kênh phân phối mới thông qua sự trợ giúp của công nghệ thông tin như ATM, Mobile Banking... với nhiều ưu điểm về thời gian và mức phí. Xu hướng của các ngân hàng hiện này vẫn là tiếp tục củng cố các kênh phân phối truyền thống, bao gồm: (i) Hệ thống các chi nhánh; (ii) Ngân hàng đại lý (thường được áp dụng đối với các NHTM chưa có chi nhánh) và phát triển kênh phân phối hiện đại bao gồm: Các chi nhánh tự động hoá hoàn toàn; chi nhánh ít nhân viên; ngân hàng điện tử (E - Banking); Ngân hàng qua mạng gồm Ngân hàng qua mạng nội bộ và Ngân hàng qua mạng internet.

Thứ ba, một trong những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát đầu tiên tại Mỹ năm 2008 là do những yếu kém trong khâu quản lý rủi ro gây ra đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, xu hướng tập trung hóa quản trị rủi ro và cơ cấu lại danh mục đầu tư sẽ được các ngân hàng đặc biệt quan tâm. Theo đó, ở Việt Nam, việc cơ cấu lại danh mục đầu tư, giảm tỷ trọng cho vay vào các lĩnh vực nóng như bất động sản và chứng khoán, tăng tỷ trọng cho vay tiêu dùng và cho vay đầu tư kinh doanh phục vụ sản xuất sẽ được các ngân hàng đặc biệt quan tâm nhằm giải quyết những khoản nợ xấu được cho là đang gia tăng do tác động từ khủng hoảng. Các NHTM ở Việt Nam cũng đã bước đầu xây dựng khung hệ thống quản lý rủi ro bao gồm cơ cấu tổ chức, các quy định nội bộ, nhằm quản lý rủi ro ở mọi phạm vi từ khoản mục đến danh mục và các loại hình kinh doanh, các rủi ro tín dụng, thị trường và hoạt động…

Thứ tư, xu hướng sáp nhập, mua lại các NHTM sẽ diễn ra mạnh mẽ

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 12/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí