khía cạnh của tài nguyên du lịch, như khía cạnh kinh tế, xã hội của tài nguyên du lịch; mối quan hệ giữa du lịch với tài nguyên và môi trường… mà chưa đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở nước ta. Dù vậy, các công tình nghiên cứu trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc nghiên cứu đề tài của luận văn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch, qua đó góp phần hạn chế tác động tiêu cực đến tài nguyên du lịch của đất nước.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tài nguyên du lịch, pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.
- Đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam.
- Đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, diễn dịch, dự báo khoa học để rút ra các kết luận mang tính chính xác, có ý nghĩa cho luận văn.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam - 1
- Những Vấn Đề Chung Về Pháp Luật Bảo Vệ Tài Nguyên Du Lịch
- Những Nội Dung Cơ Bản Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Tài Nguyên Du Lịch
- Quyền Hạn Và Nghĩa Vụ Của Các Tổ Chức, Cá Nhân Trong Bảo Vệ Tài Nguyên Du Lịch
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả nêu khái quát một số vấn đề lý luận về tài nguyên du lịch, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch; phân tích
các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và đánh giá thực trạng thực hiện chúng trên thực tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam. Như vậy, việc bảo vệ tài nguyên du lịch bằng pháp luật cần được triển khai ở cả khía cạnh xây dựng pháp luật và thực tế thực hiện pháp luật với những cách thức, biện pháp đa dạng, phong phú, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Cụ thể đề tài dự kiến có những đóng góp sau:
- Trong Chương 1, đề tài tập trung làm rõ vai trò của việc bảo vệ tài nguyên du lịch trong mối quan hệ với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và yêu cầu bảo vệ chất lượng môi trường; sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch bằng pháp luật và khái quát được hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.
- Trong Chương 2, đề tài tập trung đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam, gồm đánh giá ưu điểm, hạn chế về nội dung và hình thức của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch; đánh giá kết quả, hạn chế khi thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và nêu được nguyên nhân của bất cập, hạn chế đó.
- Trong Chương 3, từ những kết quả nghiên cứu của Chương 1 và Chương 2, đề tài đưa ra các giải pháp, kiến nghị mới nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch, đặc biệt ở khía cạnh quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch; rà soát cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và tuyên truyền pháp luật để bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định cụ thể của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và các hoạt động thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi nước Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu:
+ Giai đoạn từ năm 1960- 1999, với sự ra đời của các văn bản pháp lý đầu tiên về du lịch, đặc biệt là Pháp lệnh du lịch - Văn bản pháp lý đầu tiên thống nhất các quy định về du lịch.
+ Giai đoạn từ 1999 đến nay, với những bước phát triển lớn của pháp luật du lịch, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Du lịch 2005. Đây là văn bản pháp lý quan trọng quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch.
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật du lịch và pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên trong mối liên hệ với hoạt động du lịch. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp pháp lý về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch
1.1.1. Tài nguyên du lịch
Theo tác giả Phạm Trung Lương và Đặng Duy Lợi đã định nghĩa trong cuốn sách “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” thì “Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan, mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình” [10, tr.5].
Với PGS.TS. Trần Đức Thanh thì:
Tài nguyên là tất cả những nguồn thông tin, vật chất, năng lượng được khai thác phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Đó là những thành tạo hay tính chất của thiên nhiên, những công trình, những sản phẩm do bàn tay khối óc của con người làm nên, những khả năng của loài người,… được sử dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng [21, tr.56].
Như vậy, tài nguyên có thể được hiểu là những gì thuộc về tự nhiên, hay là những sản phẩm do con người tạo ra, có thể được con người sử dụng vào phát triển kinh tế và xã hội để tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, nhu cầu đời sống ngày càng tăng kéo theo nhu cầu khai thác tài nguyên phục vụ cho các hoạt động phát triển cũng ngày càng tăng cao. Mỗi ngành nghề khác nhau lại có yêu cầu khác nhau trong khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, nên việc phân chia các nhóm nguồn tài nguyên phục vụ cho từng lĩnh vực cũng có xu hướng ngày
càng cụ thể, chi tiết hơn. Sự phân biệt rõ chức năng của mỗi nguồn tài nguyên phù hợp với từng lĩnh vực là nhằm giúp cho công tác quản lý các nguồn tài nguyên được thuận lợi, hiệu quả hơn và tài nguyên du lịch cũng được tiếp cận theo hướng đó.
Nguyễn Minh Tuệ cho rằng:
Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch [23, tr.33].
Luật Du lịch năm 2005 quy định:
Tài nguyên du lịch được hiểu là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch [14, Điều 4, Khoản 4].
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân. Cụ thể:
1.1.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi trường tự nhiên bao quanh chúng ta được khai thác sử dụng để phục vụ cho
hoạt động du lịch. Các tài nguyên du lịch tự nhiên luôn gắn liền với các điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, được khai thác đồng thời với tài nguyên du lịch nhân văn.Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm:
- Tài nguyên địa hình
Địa hình là thành phần quan trọng của tự nhiên, nơi diễn ra các hoạt động của con người. Đối với hoạt động du lịch, các dạng địa hình tạo nên phong cảnh, một yếu tố quan trọng để hình thành nên các tài nguyên khác. Các địa hình đặc biệt có sức hấp dẫn khách du lịch là: địa hình Karst, địa hình bờ biển, địa hình hải đảo,…
Địa hình Karst: chiếm khoảng 60.000 km2 tập trung chủ yếu ở Việt
Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, với các dạng Karst hang động, Karst ngập nước và Karst đồng bằng. Địa hình Karst tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn với hệ thống các hang động, núi đá vôi,…
Địa hình bờ biển: Bờ biển nước ta dài khoảng 3.260 km với nhiều cảnh quan phong phú, đa dạng, có nhiều bãi tắm đẹp là một tiềm năng rất có giá trị cho du lịch biển, nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí. Các bãi biển nổi tiếng như: Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Văn Phong (Nha Trang), Mỹ Khê (Đà Nẵng)…
Địa hình hải đảo: Nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó nhiều đảo có cảnh quan đẹp đã được đưa vào khai thác phục vụ du lịch như: Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Lý Sơn (Quảng Ngãi)….
- Tài nguyên khí hậu
Tài nguyên khí hậu là sự tổng hợp các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí, tốc độ gió, hướng gió, bức xạ nhiệt. Các yếu tố của khí hậu thay đổi theo không gian từ xích đạo đến hai cực, theo độ cao, theo thời gian (tính theo mùa), có mối quan hệ chặt chẽ với địa hình, vị trí địa lý, thủy văn và sinh vật, hoạt động sản xuất và đời sống của con người [25, tr.43].
Khí hậu bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, không khí, lượng mưa, gió, bức xạ mặt trời. Những nơi có khí hậu thích hợp với sức khỏe con người, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Tài nguyên khí hậu phục vụ cho phát triển các loại hình du lịch và quyết định tính thời vụ của nhiều loại hình du lịch.
- Tài nguyên nước
Tài nguyên nước bao gồm nước mặt và nước ngầm. Đối với hoạt động du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất to lớn, bao gồm: đại dương, biển, hồ, sông, suối, thác,… Nước mặt góp phần tạo môi trường không khí mát mẻ, thoáng, tạo phong cảnh đẹp. Các mặt nước ven bờ như bãi biển, ven hồ, các dòng sông thường được sử dụng để tắm, phát triển các hoạt động thể thao dưới nước.
So với nước mặt, nước ngầm bao gồm các điểm nước khoáng, suối nước nóng là tài nguyên thiên nhiên quý giá để phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh. Trong đó, nước khoáng là nước thiên nhiên chứa một số thành phần vật chất đặc biệt, các nguyên tố hóa học, các khí, các nguyên tố phóng xạ và có tính chất vật lý như nhiệt độ cao, độ Ph có tác dụng sinh lý với con người.
- Tài nguyên sinh vật
Tài nguyên sinh vật bao gồm nguồn động vật, thực vật tiêu biểu có thể phục vụ phát triển du lịch. Ngày nay, khi áp lực từ cuộc sống, công việc ngày càng tăng khiến cho con người thường rơi vào trạng thái bức bối, căng thì nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí ngày càng trở nên cấp thiết cùng với thị yếu đi du lịch ngày càng phong phú. Du khách mong muốn được chiêm ngưỡng những cảnh quan sinh thái, những hệ động, thực vật phong phú, mang tính thẩm mĩ cao để thỏa mãn tính giải trí, có được cảm giác thư thái. Trong hoạt động tham quan du lịch thì tài nguyên sinh vật có ý nghĩa đặc biệt, chính nó có thể mang đến cho những người chiêm ngưỡng, tận hưởng
nó cảm giác thoải mái tinh thần, thỏa mãn trí tò mò của họ. Điều đó là nguyên nhân chính thu hút khách du lịch, vì thế tính đa dạng sinh học sự bảo tồn được nhiều nguồn gen, tạo phong cảnh đẹp, thơ mộng cần được bảo vệ, tu bổ và khai thác hợp lý để phát triển bền vững.
1.1.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng và hiện tượng xã hội cùng các giá trị văn hóa, lịch sử của chúng có sức hấp dẫn du khách và được khai thác để kinh doanh du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn được chia thành hai loại là tài nguyên du lịch nhân văn vật thể và tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể:
- Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể
Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể là các di tích lịch sử văn hóa - những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra để lại. Theo các giá trị khác nhau, các di tích lịch sử văn hóa được đánh giá, xếp hạng theo các cấp bậc khác nhau. Di sản văn hóa được coi là sự kết tinh của những sáng tạo văn hóa của một dân tộc. Các di sản văn hóa khi được công nhận là các di sản văn hóa thế giới của quốc gia thì sẽ trở thành nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô giá, có sức hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế như: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An,…
Bên cạnh đó, còn có các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và địa phương. Di tích khảo cổ học là các di khảo cổ có thể bị vùi lấp trong lòng đất hoặc ở trên mặt đất bao gồm di chỉ mộ táng, những công trình kiến trúc cổ. Các di tích lịch sử văn hóa là những công trình ghi nhận các sự kiện, các địa điểm lịch sử tiêu biểu của các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình. Các di tích văn hóa nghệ thuật là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị, những di tích này chứa cả những giá trị kiến trúc nghệ thuật và những giá trị văn hóa phi vật thể.