hiệu quả. Vốn được phân ra và sử dụng tuỳ thuộc vào mục đích, loại hình doanh nghiệp. Theo nguồn hình thành, vốn được chia ra thành vốn chủ sở hữu và vốn vay.
2.1.2.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là các nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong các công ty cổ phần. Đây cũng là nguồn vốn đầu tiên mà doanh nghiệp huy động được.
Số vốn này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải trả lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do kinh doanh có lãi sẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp cho mình. Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng tài sản phản ánh tình hình chủ động về tài chính của doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức khác nhau.
Vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn kinh doanh (vốn góp và lợi nhuận chưa chia), chênh lệch đánh giá lại tài sản, các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi...Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp phát không hoàn lại...)
2.1.2.2. Vốn vay
Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn đi vay, đi chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị cá nhân và sau một thời gian nhất định, doanh nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả lãi và gốc. Phần vốn này doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định (như thời gian sử dụng, lãi suất, thế chấp...) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay có hai loại là vốn vay ngắn hạn và vốn vay trung, dài hạn.
Vốn vay ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một năm. NHTM là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Các khoản vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như lãi suất thấp hơn so với vay trung và dài hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản xuất.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp ngành chứng khoán đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 1
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp ngành chứng khoán đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2
- Một Số Nghiên Cứu Thực Nghiệm Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam
- Bảng Kết Quả Thống Kê Các Biến Độc Lập Và Phụ Thuộc
- Kiểm Định Các Biến Không Có Ý Nghĩa Trong Mô Hình
Xem toàn bộ 71 trang tài liệu này.
Vốn vay trung và dài hạn là những khoản vay có thời hạn trên một năm, thường được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của doanh nghiệp để từ đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường...Hình thức cho vay này có thời gian kéo dài, qui mô tín dụng lớn, lãi suất lớn hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn vì mức độ rủi ro cao hơn và thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
Trong trường hợp tài trợ bằng vay nợ, rủi ro tài chính sẽ phát sinh do doanh nghiệp phải gánh chịu một khoản lãi phải trả cố định. Nhìn chung các doanh nghiệp có rủi ro trong kinh doanh cao thường có xu hướng sử dụng vốn vay ít hơn so với các doanh nghiệp có mức độ rủi ro thấp. Đương nhiên lúc này, các doanh nghiệp chấp nhận tài trợ bằng vốn vay cao cũng đồng thời đã chấp nhận phải gánh chịu rủi ro tài chính cao hơn. Do đó, để đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động thì các doanh nghiệp cần cân nhắc thận trọng khi quyết định vốn vay.
Sự khác nhau cơ bản giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu đó chính là trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp khi sử dụng.
- Đối với vốn vay thì doanh nghiệp phải thực hiện cam kết trả nợ gốc và lãi cho việc sử dụng vốn trong thời gian nhất định và việc thanh toán này không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh. Tuy nhiên việc sử dung vốn vay sẽ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp vì chi phí sử dụng vốn vay thấp hơn so với vốn chủ sở hữu nên doanh nghiệp có thể tận dụng hiệu ứng của đòn bẩy nợ.
- Đối với vốn chủ sở hữu thì doanh nghiệp không phải lo trả nợ nhưng chi phí sử dụng so với vốn vay có thể cao hơn và ảnh hưởng đến việc điều hành doanh nghiệp.
2.2. Các chỉ tiêu đo lường cấu trúc vốn
Chỉ tiêu được sử dụng phổ biến để đo lường cấu trúc vốn của doanh nghiệp là chỉ tiêu tỷ suất nợ và tỷ suất nợ trên vốn chủ sở hữu.
Chỉ tiêu tỷ suất nợ: Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng các khoản nợ, nghĩa là bao nhiêu phần trăm của doanh nghiệp được hình thành bằng nợ phải trả.
Khi tỷ suất nợ càng cao thì mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào chủ nợ càng lớn và do đó tính tự chủ của doanh nghiệp càng thấp.
7
Tỷ suất nợ trên vốn chủ sở hữu: Được gọi là đòn cân nợ thể hiện mức độ đảm bảo nợ bởi vốn chủ sở hữu, cho biết một đồng nợ được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu.
Chỉ tiêu này cũng phản ánh tính tự chủ về mặt tài chính, khả năng chủ động về nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn trong doanh nghiệp
2.3.1. Nhân tố bên trong
2.3.1.1. Qui mô doanh nghiệp
Được đo lường bằng giá trị logarith của tổng tài sản. Đây được xem là dấu hiệu đầu tiên để các nhà đầu tư bên ngoài biết đến doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp được biểu hiện ở quy mô tài sản hay tổng giá trị tài sản, vốn chủ sở hữu hoặc số lượng lao động hiện hành.
Một doanh nghiệp lớn sẽ cung cấp nhiều thông tin cho nhà đầu tư hơn, có khả năng đa dạng hóa tốt, xác suất phá sản thấp hơn các doanh nghiệp nhỏ và dẫn đến việc có nhiều lợi thế hơn trong thị trường cạnh tranh như hiện nay. Vì vậy hầu hết các doanh nghiệp đều hướng tới việc mở rộng quy mô để tận dụng lợi thế quy mô lớn. Điều này cũng đồng nghĩa rằng công ty có tiềm lực tài chính vững mạnh, chi phí vấn đề người đại diện nợ vay thấp, chi phí kiểm soát thấp, dòng tiền ít biến động từ đó dễ dàng tiếp cận thị trường tài chính và các tổ chức tài chính tín dụng để lựa chọn nguồn tài trợ.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Rajan và Zingales (1995) cho thấy quy mô công ty và tỷ lệ đòn bẩy tài chính có mối quan hệ tỷ lệ thuận.
2.3.1.2. Cấu trúc tài sản
Vốn là biểu hiện bằng tiền của tài sản nên đặc điểm cơ cấu vốn cũng chịu sự chi phối của cơ cấu tài sản. Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia ra thành tài sản lưu động (tài sản ngắn hạn) và tài sản cố định (tài sản dài hạn).
Tỷ lệ tài sản cố định hữu hình càng cao thì doanh nghiệp có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính càng lớn do có cơ hội thế chấp những tài sản này để tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài. Thêm vào đó, trong trường hợp công ty rơi vào tình huống phá sản, những tài
sản cố định có giá trị cao sẽ làm cho công ty gia tăng giá trị thanh lý và góp phần giải quyết hậu quả tài chính.
Nghiên cứu của Williamson – 1998 (được trích dẫn bởi Lê Thị Kim Thư, 2012) chỉ ra rằng doanh nghiệp có thể vay với lãi suất thấp hơn nếu có tài sản thế chấp. Do vậy, có thể xem xét tài sản hữu hình có mối quan hệ cùng chiều với đòn bẩy tài chính.
2.3.1.3. Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
Tốc độ tăng trưởng cao cho thấy kết quả kinh doanh hiệu quả, khả quan. Công ty tăng trưởng cao với nhiều dự án sinh lời thường lấy vốn chủ sở hữu làm nguồn tài trợ chính hơn là nợ vay. Khi công ty có đòn bẩy tài chính cao, các cổ đông không có khuynh hướng đầu tư nhiều vào các dự án vì lợi nhuận từ các khoản đầu tư này sẽ có lợi cho các chủ nợ hơn là các cổ đông. Chính vì thế, đòn bẩy tài chính có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với cơ hội tăng trưởng. (Lý thuyết chi phí đại diện)
Theo lý thuyết trật tự phân hạng (Myers-1984), mối quan hệ giữa hai yếu tố này là cùng chiều. Khi các yếu tố khác không đổi thì doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao thường có nhu cầu về vốn nhiều hơn. Trong trường hợp nguồn lợi nhuận giữ lại không đủ để trang trải các hoạt động sản xuất, kinh doanh...của doanh nghiệp thì vốn vay sẽ được sử dụng, dẫn đến tỷ trọng nợ càng cao.
2.3.1.4. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Mục tiêu lâu dài của các doanh nghiệp hiện nay là kinh doanh có hiệu quả và tối đa hóa lợi nhuận. Hiệu quả hoạt động kinh doanh đo lường khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của công ty thông qua các chỉ tiêu như khả năng sinh lời tài sản (Return on Assets – ROA), khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu (Return on Equity – ROE), khả năng sinh lời doanh thu (Return on Sales – ROS).
Nghiên cứu của Bevan và Danbolt (2002) đã chỉ ra rằng các công ty có khả năng sinh lợi tốt hơn thì sử dụng ít nợ hơn, nguyên nhân là do lợi nhuận cao sẽ mang đến cho những cổ đông sáng lập công ty một vị thế cao hơn, khẳng định tính tự chủ của doanh nghiệp. Vì vậy, có thể nhận định rằng khả năng sinh lời của công ty có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ trong cấu trúc vốn. Mặt khác, các doanh nghiệp tận dụng nguồn lợi nhuận cao đó để vay, đầu tư vào các dự án hoặc tài sản nhằm mục đích mở rộng qui mô
sản xuất, thu về nguồn lợi nhuận cao hơn trong tương lai. Từ đó cũng có thể nói rằng mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh và tỷ lệ nợ cùng chiều với nhau.
2.3.1.5. Tính thanh khoản của doanh nghiệp
Đây là năng lực về tài chính mà doanh nghiệp có được để đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn cho cá nhân, tổ chức cho doanh nghiệp vay nợ.
Nếu các công ty có hệ số thanh toán cao có thể sử dụng nhiều nợ vay do công ty có khả năng trả các khoản nợ vay ngắn hạn khi đến hạn. Điều này có nghĩa là tính thanh khoản của công ty có quan hệ cùng chiều với nợ vay. Mặt khác, các công ty có nhiều tài sản thanh khoản nên có thể sử dụng các tài sản này tài trợ cho các khoản đầu tư của mình mà không cần vay nợ. Do đó, mối quan hệ giữa tính thanh khoản với đòn bẩy tài chính trong trường hợp này tỷ lệ nghịch với nhau.
2.3.1.6. Chính sách quản lý của lãnh đạo công ty
Lý thuyết trật tự phân hạng của Myers cho rằng có thể không có một cấu trúc vốn mục tiêu riêng và hàm ý rằng các doanh nghiệp thích tài trợ nội bộ hơn. Nếu cần phải dùng đến nguồn tài trợ từ bên ngoài thì các công cụ nợ thường là chứng khoán sẽ được phát hành đầu tiên và việc bán vốn cổ phần ra bên ngoài sẽ là lựa chọn cuối cùng.
Việc các cấp quản lý có sẵn lòng chấp nhận rủi ro hay không thường có tác động lớn đến cấu trúc vốn mà doanh nghiệp lựa chọn. Một vài giám đốc chấp nhận cấu trúc vốn có nhiều rủi ro và có những giám đốc lại không thích rủi ro. Doanh nghiệp sẽ bị chịu chi phí phá sản khi sử dụng vốn không hiệu quả.
Chủ sở hữu và các thành viên góp vốn không muốn phát hành thêm cổ phiếu vì sợ mất đi một phần hoặc toàn bộ quyền kiểm soát điều hành công ty. Nếu cổ phần thường của doanh nghiệp có sẵn ngoài công chúng thì một doanh nghiệp lớn có thể mua quyền kiểm soát doanh nghiệp một cách tương đối dễ dàng. Vì vậy, các chủ sở hữu đều giữ cổ phần của mình và tài trợ bằng nợ, cổ phần ưu đãi hay lợi nhuận giữ lại. Ưu tiên cho tài trợ nội bộ giúp các doanh nghiệp không phải công bố thông tin, tránh được các biện pháp kỷ luật cũng như chịu sự giám sát khi bán chứng khoán mới ra công chúng.
2.3.1.7. Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là những rủi ro liên quan đến hiệu quả quản lý hoạt động của công ty, gắn liền với đặc điểm kinh doanh của từng ngành, thể hiện những biến động trong doanh thu, chi phí hoạt động và lợi nhuận hoạt động.
Khi rủi ro kinh doanh càng lớn, niềm tin của các nhà đầu tư vào doanh nghiệp không cao, vì vậy khả năng tiếp cận nguồn vốn từ bên ngoài thấp. Doanh nghiệp luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, mà thông thường rủi ro luôn đi đôi với lợi nhuận.
Thực tế trong cấu trúc tài chính của công ty sẽ phải gặp những rủi ro như các khoản nợ xấu, tỷ giá hối đoái, lãi suất biến động, lạm phát...Nếu doanh nghiệp mạo hiểm chấp nhận rủi ro thì sẽ có cơ hội gia tăng lợi nhuận. Do vậy, những nhà quản lý có khả năng sử dụng nhiều công cụ nợ để gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần phải cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định tăng tỷ trọng vốn vay bởi lẽ chỉ cần một sự thay đổi về doanh thu và lợi nhuận theo chiều hướng giảm sút sẽ làm tăng nguy cơ phá sản.
Theo lý thuyết cân đối, rủi ro kinh doanh có quan hệ tỷ lệ nghịch với cấu trúc vốn. Rủi ro kinh doanh càng cao thì càng gia tăng sự khốn khó cho doanh nghiệp. Tương tự, chi phí đại diện liên quan đến việc sử dụng nợ sẽ càng nhiều hơn nếu như rủi ro phá sản của doanh nghiệp cao hơn.
2.3.2. Nhân tố bên ngoài
2.3.2.1. Thuế
Thuế gây một tác động quan trọng đối với cấu trúc vốn của doanh nghiệp trên cả hai khía cạnh thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được đo lường bằng khoản tiền doanh nghiệp thực nộp dựa trên thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT). Các công ty chịu thuế suất biên cao hơn sẽ có xu hướng sử dụng nhiều nợ vay hơn nhằm hưởng lợi từ tấm chắn thuế. Do vậy, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp có quan hệ tỷ lệ thuận với đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên trong thực tế, nợ vay có thể là lợi thế đối với doanh nghiệp này nhưng trái lại với các công ty khác khi mà lợi nhuận thu về không đủ để bù đắp cho các chi phí lãi vay.
Thuế suất thuế thu nhập cá nhân tác động đến việc chi trả cổ tức của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc gia tăng thuế suất thuế thu nhập cá nhân khuyến khích công ty giữ lại lợi nhuận để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng hoặc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu.
2.3.2.2. Lãi suất kỳ vọng thị trường
Nếu lãi suất vay sẽ tăng và việc vay nợ sẽ trở nên khó khăn thì ngay lúc này phải tăng độ nghiêng đòn bẩy tài chính. Ngược lại, nếu dự đoán lãi suất sẽ giảm thì phải có kế hoạch giảm hay hoãn việc vay nợ lại. Lãi suất kỳ vọng thị trường càng cao làm cho các nhà đầu tư kỳ vọng vào lợi nhuận công ty cao. Do đó, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn.
2.3.2.3. Các tiêu chuẩn của ngành kinh doanh
Cấu trúc vốn giữa các ngành công nghiệp khác nhau rất nhiều. Kester tìm thấy rằng các doanh nghiệp càng sinh lợi cao càng có khuynh hướng sử dụng ít nợ. Một số nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ đòn bẩy tài chính trong cấu trúc vốn có tương quan phủ định với tần suất phá sản trong ngành.
Các doanh nghiệp phát sinh nhũng dòng tiền ổn định qua chu kỳ kinh doanh có khuynh hướng có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn. Nói chung, các doanh nghiệp có khuynh hướng tập trung sát tỷ lệ nợ của ngành có thể phản ánh sự kiện là phần lớn rủi ro kinh doanh mà một doanh nghiệp gặp phải là do ngành hoạt động ấn định. Một doanh nghiệp có cấu trúc vốn khác biệt lớn với mức bình quân ngành sẽ khác biệt đáng kể với rủi ro của một doanh nghiệp trung bình trong ngành.
2.3.2.4. Chính sách quản lý của nhà nước
Các chính sách quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước ảnh hưởng đến nguồn vốn vay của doanh nghiệp. Điều này làm ảnh hưởng đến quyết định tài trợ vốn đầu tư của các công ty. Hiện nay chính phủ đang thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát ở mức hai con số bằng chính sách thắt chặt tiền tệ với mức lãi suất cơ bản cao dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay.
2.3.2.5. Tác động của tín hiệu thị trường
Khi doanh nghiệp phát hành chứng khoán mới thì nó sẽ cho thấy viễn cảnh tương lai của công ty. Việc cung ứng chứng khoán mới sẽ làm giá chứng khoán giảm. Việc mua lại cổ phần thường sẽ làm tăng thu nhập trên mỗi cổ phiếu. Các hành động làm tăng đòn bẩy tài chính thường gắn với thu nhập cổ phần dương và ngược lại các hành động làm giảm đòn bẩy tài chính gắn với thu nhập cổ phần âm. Vì vậy, khi quyết định thay đổi về
cấu trúc vốn, doanh nghiệp phải chú ý đến tín hiệu có thể có về các viễn cảnh thu nhập tương lai và hiện tại cũng như các dự định của giám đốc mà giao dịch được đề xuất sẽ chuyển đến thị trường.
2.4. Các chỉ tiêu tài chính phản ánh cấu trúc vốn của doanh nghiệp
2.4.1. Khả năng thanh toán hiện hành
Là hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, cho biết mức độ tự trang trải của tài sản lưu động đối với nợ ngắn hạn mà không cần tới một khoản vay mượn thêm.
Tỷ số CR ≥ 1 chứng tỏ sự bình thường trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp có khả năng không hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ của mình khi tới hạn.
Tỷ lệ này cho phép hình dung ra chu kỳ hoạt động của công ty xem có hiệu quả không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không. Nếu công ty gặp rắc rối trong vấn đề đòi các khoản phải thu hoặc thời gian thu hồi tiền mặt kéo dài thì rất dễ gặp phải rắc rối về khả năng thanh khoản.
Khi tỷ số lưu động có giá trị cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng thanh khoản cao. Nhưng nếu tỷ số này có giá trị cao quá thì có nghĩa là việc quản trị tài sản lưu động của doanh nghiệp không hiệu quả bởi có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hay có quá nhiều khoản nợ phải đòi. Do đó có thể lảm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
2.4.2. Tài sản cố định hữu hình trên tổng tài sản
Là tỷ số cho biết trong một đồng tài sản của doanh nghiệp thì tài sản hữu hình chiếm bao nhiêu đồng. Tỷ số này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đang có xu hướng mở rộng qui mô, đầu tư nhiều vào tài sản cố định như: máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng...Tuy nhiên, nếu đầu tư quá nhiều vào tài sản cố định hữu hình sẽ làm cho doanh