Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Cảnh Quan

7


- "Bảo vệ cảnh quan" có nghĩa là các hành động để bảo tồn và duy trì ý nghĩa hoặc các đặc điểm đặc trưng của một cảnh quan, được chứng minh bằng giá trị di sản của nó bắt nguồn từ tự nhiên và / hoặc từ hoạt động của con người;

- "Quản lý cảnh quan" có nghĩa là hành động, từ góc độ phát triển bền vững, để đảm bảo bảo trì thường xuyên của một cảnh quan, để hướng dẫn và hài hòa các thay đổi được đưa ra bởi các quá trình xã hội, kinh tế và môi trường;

- "Quy hoạch cảnh quan" có nghĩa là hành động hướng tới tương lai mạnh mẽ để tăng cường, khôi phục hoặc tạo cảnh quan.

Công ước công nhận rằng tất cả các lãnh thổ là một phần của cảnh quan chung bao gồm đô thị, ven đô, nông thôn và đất tự nhiên cũng như các vùng nước và biển. Công ước cung cấp một cái nhìn toàn diện về cảnh quan theo tư duy đương đại về tính bền vững, sự hiểu biết về mối liên quan của con người đến các quá trình sinh thái

- hay mối liên quan giữa văn hóa và thiên nhiên - và như vậy nó có ý nghĩa toàn cầu chứ không chỉ riêng biệt cho các quốc gia châu Âu. Công ước Cảnh quan Châu Âu đã đặt ra nhiệm vụ cần có sự hiểu biết toàn diện hơn về cảnh quan. Công ước cho thấy những mối quan tâm, suy nghĩ về cảnh quan đã bắt đầu được phản ánh trong công việc của các chính phủ, cơ quan môi trường và một loạt các bên quan tâm trong lĩnh vực cảnh quan ở châu Âu. Cảnh quan không nhất thiết phải được phân loại là "tự nhiên" hoặc "văn hóa" bởi vì tất cả các cảnh quan ở châu Âu ở một mức độ nào đó hoặc bị ảnh hưởng bởi con người. Do đó, thuật ngữ "cảnh quan văn hóa" có thể được coi là dư thừa, vì tất cả các cảnh quan của châu Âu cũng có thể được mô tả là "văn hóa" ở một mức độ nào đó, tuy nhiên vấn đề ghi nhận để phân loại hay loại bỏ cảnh quan văn hóa thực sự phức tạp cần nghiên cứu nhiều hơn nữa [9,10,11].

b) Hiệp ước cảnh quan Mỹ La tinh (LALI, 2012):

Hiệp ước cảnh quan Mỹ Latinh (LALI) là một tuyên bố về các nguyên tắc đạo đức cơ bản để thúc đẩy việc công nhận, định giá, bảo vệ, quản lý và quy hoạch bền vững các cảnh quan của Mỹ La tinh bằng cách thông qua các thỏa thuận (luật - hiệp định - nghị định - quy định) nhận ra sự đa dạng và giá trị của địa phương, khu vực và quốc gia, hữu hình đến mức vô hình, về cảnh quan, cũng như các nguyên tắc và quy trình để bảo vệ nó.

Các nguyên tắc sau đây chi phối Hiệp ước: cảnh quan là một thành phần cơ bản của tự nhiên và văn hóa, góp phần mang lại hạnh phúc cho con người, hình thành văn hóa địa phương và củng cố bản sắc dân tộc; Cảnh quan là một tác nhân cơ bản trong việc bảo tồn lối sống và trong ý thức hệ; Cảnh quan đóng một vai trò quan trọng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

8


Phân tích cấu trúc đa bậc cảnh quan tỉnh Lạng Sơn - 3

trong lợi ích chung tạo thành nguồn lực thuận lợi cho việc tạo ra việc làm và tạo ra các công nghệ mới; Cảnh quan, trong tầm nhìn không thể tách rời, tham gia vào sứ mệnh chung là đạt được sự bền vững và thực chất bị ràng buộc với sự thay đổi khí hậu; Cảnh quan không nhận ra biên giới và là một nhà tích hợp phức tạp giữa các quốc gia có chung biên giới; Tầm nhìn cảnh quan đóng góp vào việc bảo vệ khả năng tồn tại của môi trường tự nhiên, các giải pháp dựa trên thiên nhiên, nhằm phát triển và duy trì môi trường xây dựng nhân đạo ở các thành phố, thị trấn và làng mạc.

Hiệp ước cảnh quan Mỹ Latinh (LALI) là một tuyên bố về các nguyên tắc đạo đức cơ bản để thúc đẩy công nhận, đánh giá, bảo vệ, quản lý và lập kế hoạch bền vững của cảnh quan Mỹ La tinh, việc thông qua các thỏa thuận nhận ra sự đa dạng và các giá trị địa phương, quốc gia và khu vực, cả hữu hình và vô hình của cảnh quan, cũng như các nguyên tắc và quy trình liên quan để bảo vệ nó. Hiệp ước đề xuất, theo một cách cụ thể, để thống nhất các chính sách đa quốc gia về bảo tồn, bảo vệ, quản lý và phục hồi các đơn vị cảnh quan nằm trong khu vực xuyên biên giới. Mục tiêu chính của Hiệp ước là thúc đẩy công nhận, đánh giá, bảo vệ, quy hoạch và quản lý bền vững cảnh quan, dẫn đến tuyên bố và công nhận sự đa dạng và giá trị của cảnh quan đa dạng của các nước tham gia [12].

1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu cảnh quan

1.1.2.1. Theo hướng phân loại cảnh quan

Hướng nghiên cứu này coi cảnh quan là một thực thể tồn tại khách quan trong tự nhiên, có mối liên kết chặt chẽ và có các chỉ tiêu phân định rõ ràng giữa các bậc phân vị trong một hệ thống phân loại riêng biệt tùy theo vùng lãnh thổ. Các công trình nghiên cứu của các nhà địa lý Liên Xô trước đây và Nga hiện nay là những kết quả nổi bật theo hướng nghiên cứu này [1].

Dokuchaev được coi là nhà nghiên cứu lớn về cảnh quan đầu tiên của Nga. Là nhà thổ nhưỡng học, ông cho rằng các loại đất nên được xem như một vật thể tự nhiên độc lập, phát triển theo các quá trình đã biết và do đó đất hoàn toàn khác và được phân biệt với các vỏ phong hóa bở rời trên bề mặt Trái đất. Ông nghiên cứu mối liên hệ chặt chẽ giữa tính chất địa lý của thổ nhưỡng, địa lý học thực vật và địa lý học động vật, do đó nhận ra “sự tổng hợp lớn của khoa học tự nhiên mà gần đây được tìm thấy muộn màng trong thuyết của cảnh quan địa lý”. Năm đặc trưng của các công trình của ông có những hệ quả rất lớn đối với sự phát triển về sau này của khoa học cảnh quan ở Nga. Đầu tiên, Dokuchaev nhấn mạnh đất là một hợp phần cốt yếu kết nối vật chất vô cơ và hữu cơ theo cách mà không một hợp phần nào có thể làm được;

9


Thứ hai, phản ánh sự ảnh hưởng trong khoa học cuối thế kỷ XIX đến khoa học của Darwin và thuyết tiến hóa. Dokuchaev cho rằng đất tác động làm thay đổi các hợp phần của nó theo những cách thức liên kết với nhau và sẽ luôn tiếp diễn như thế trong tương lai; Thứ ba, cách tiếp cận của ông nhấn mạnh tầm quan trọng của các cuộc điều tra thực địa, thường đòi hỏi phải có những quan sát và thu thập các loại dữ liệu đa dạng trong thời gian dài; Thứ tư, nghiên cứu của Dokuchaev gần như luôn luôn có một đặc tính được áp dụng rõ ràng, tập trung vào các giải pháp cho các vấn đề môi trường then chốt; Cuối cùng, sơ đồ phân loại đất theo nguồn gốc của ông có dạng không gian hoặc theo dạng đới, theo đó người ta nhận ra rằng, các loại đất chính và các hợp phần tự nhiên quan trọng khác kèm theo có khuynh hướng thay đổi theo các quá trình khí hậu trong quá khứ và hiện tại, điều này có nghĩa là các đai thổ nhưỡng chính sẽ nối tiếp nhau dọc theo đường kinh tuyến trên khắp lục địa Âu - Á. Mặc dù đặc tính đới của thổ nhưỡng đã được Dokuchaev ghi nhận trong các nghiên cứu ban đầu của ông về các loại đất đen, nhưng chỉ đến cuối đời ông mới bắt đầu nói về “các đới tự nhiên” toàn cầu theo nghĩa rộng nhất, Dokuchaev cho rằng nhiều khía cạnh của xã hội loài người cũng có thể tương quan với các vùng. Cái nhìn sâu sắc này về sau được tiếp nối bởi các học trò của ông. Một trong những người kế tiếp công việc của Dokuchaev nổi tiếng nhất là K.D.Glinka (1867-1927). Glinka thành lập cơ sở chính thức của khoa học thổ nhưỡng là Ủy ban Thổ nhưỡng Dokuchaev vào năm 1917 và Viện Thổ nhưỡng năm 1927. Công trình chính của ông năm 1908 về đất theo đới đã được dịch sang tiếng Đức năm 1914 và dịch sang tiếng Anh được công bố ở Hoa Kỳ năm 1927 bởi C.F.Marbut. Bằng cách này tác phẩm của Dokuchaev và trường phái của ông lần đầu tiên được đưa vào nhận thức của thế giới nói tiếng Anh. V.I.Vernadskii (1863-1945) đã nổi tiếng thế giới với công trình về khoáng vật học và tinh thể học và đặc biệt là công trình nền tảng về địa hóa học và sinh địa hóa học. Sự phát triển các quan niệm của ông về sinh quyển và trí quyển đã có một tác động lớn đến nhiều ngành khoa học môi trường ở Nga. Những người khác có đóng góp quan trọng cho khoa học cảnh quan gồm G.N.Vysotskii, G.F.Morozov và R.I.Abolin.hai người đã trở thành những nhà địa lý chuyên nghiệp là A.N.Krasnov, người đứng đầu khoa Địa lý ở Đại học Tổng hợp Khar'kov từ năm 1889 và G.N.Tanfil'ev, người chiếm giữ vị trí tương tự ở Odessa từ năm 1905 [1].

Truyền thống khoa học cảnh quan Nga không thể không kể đến Lev Semenovich Berg (1876-1950), giáo sư khoa Địa lý tại Đại học tổng hợp Leningrad (St. Petersburg), chủ tịch của Hội Địa lý Liên Xô (1940-1950) và là một thành viên

10


chính thức của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô từ năm 1946. Berg đã trình bày những quan niệm đầu tiên của ông về cảnh quan địa lý trong các ấn phẩm năm 1913 và 1915. Ông cho rằng thuật ngữ “cảnh quan địa lý” dùng để chỉ “đơn vị cơ bản của khoa học của chúng ta, đối tượng trực tiếp của nghiên cứu, cá thể địa lýhay cá thể đặc biệt”. Ông không đồng tình định nghĩa của Albrecht Penck về cảnh quan địa lý biểu thị một khu vực thể hiện các cấu tạo địa hình phổ biến, đã biết thông qua các văn liệu địa mạo và địa lý của Đức, Berg lập luận cho một định nghĩa rộng lớn hơn. Ông quan niệm “Một cảnh quan địa lý là sự kết hợp hay gộp nhóm các đối tượng và hiện tượng trong đó các đặc thù của địa hình, khí hậu, nước, đất, thực vật và động vật, và một mức nhất định hoạt động của con người, hòa trộn vào một tổng thể hài hòa đơn lẻ, thường lặp lại trong phạm vi của một đới nhất định trên Trái đất”. Do đó theo Berg, một cảnh quan là một nhóm các kết hợp tự nhiên của các tính chất vô cơ và hữu cơ, trong đó sự thay đổi xảy ra trong một tính năng dẫn đến thay đổi trong tất cả các tính năng khác. Ông tin rằng nhiệm vụ của nhà địa lý đó là “để hiểu được các bộ phận của tổ hợp phức tạp của cái mà chúng ta gọi là một cảnh quan”. Những khoa học chuyên ngành khác nghiên cứu “chỉ có các mảnh riêng biệt của tổ hợp này của những mối liên hệ, từng cá thể tạo thành, nhưng địa lý phải hiểu và giải thích cấu trúc và tổ chức của cảnh quan". Hơn nữa ông giải thích rằng các cảnh quan có thể được nhóm lại thành các vùng cảnh quan kết hợp với các vành đai khí hậu, đất và thảm thực vật. Berg đã sử dụng các thuật ngữ “vùng địa lý” hoặc theo Dokuchaev “các vùng tự nhiên” cho thế giới nói tiếng Anh thường được gọi là “quần thể sinh vật” chủ yếu, “các cộng đồng rộng lớn nhất được các nhà sinh thái học công nhận”. Tương tự, các cảnh quan thiên nhiên có thể được phân chia thành các cá thể địa lý (các đơn vị địa lý có ý nghĩa nhỏ nhất) [1].

Berg quan niệm khoa học cảnh quan là địa lý học, nhưng không được chấp nhận rộng rãi trong các nước thuộc Liên Xô cũ. Tuy nhiên, sự hiểu biết thiết yếu của Berg về cảnh quan - rằng cảnh quan là một đơn vị tự nhiên thể hiện mức độ phụ thuộc lẫn nhau rất cao giữa địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật, động vật và thậm chí ở một mức độ nào đó là hoạt động của con người - là cốt lõi của truyền thống khoa học cảnh quan ở Nga cho đến ngày nay. Berg nêu rõ: “Tôi đã phát triển các quan niệm của tôi về các đới địa lý (cảnh quan) một cách độc lập, mặc dù dựa trên cơ sở khoa học về đất của Dokuchaev”. Quan niệm về cảnh quan của Berg dường như đã bị ảnh hưởng bởi trường phái Dokuchaev nói chung, nhưng chỉ sau đó ông mới nhận ra rằng chính Dokuchaev đã viết về “các đới tự nhiên” toàn cầu (cái mà

11


Berg gọi là “các đới cảnh quan”) hoặc các quần thể sinh vật tự nhiên. Berg dựa trên công trình của Dokuchaev làm nền tảng cho ông nhưng cũng có một chút đối ngược. Dokuchaev cho rằng khoa học tổng hợp mới có thể tích hợp các nghiên cứu về các hợp phần của môi trường tự nhiên và xã hội và không thể trùng khớp với địa lý học. Địa chất học, thổ nhưỡng học, thực vật học, động vật học và lâm nghiệp là những gì Dokuchaev và hầu hết những người kế tiếp ông đã xác định chủ yếu là những khoa học tự nhiên. Địa lý học, đã được Chính phủ ấn định thiết lập trong các trường Đại học Tổng hợp Nga năm 1884 là một môn học chiết trung. Quan điểm của Berg là quá khác nhưng là quan trọng đối với sự phát triển của khoa học cảnh quan Nga.

Berg đã nghiên cứu về động vật học và địa lý học tại Đại học Tổng hợp Matxcơva và sau đó đã làm việc một số năm ở Trung Á, nơi ông đã dẫn đầu việc nghiên cứu khoa học trong một loạt các vấn đề về địa lý tự nhiên. Như một nhà tự nhiên học và giống như Dokuchaev, ông bị ảnh hưởng nhiều bởi Humboldt, nhưng với tư cách là một nhà địa lý học ông cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của Karl Ritter với trọng tâm của người sau về địa lý tự nhiên, địa lý lịch sử và nhân văn. Một ảnh hưởng khác và trung gian của Đức đến Berg là một nhà triết học và phương pháp luận học địa lý lớn là Alfred Hettner (1859-1941), những ý tưởng của ông dĩ nhiên cũng có ý nghĩa đối với Sauer. Đối với Berg và các nhà địa lý Nga khác, sự đóng góp to lớn của Hettner đối với ngành của họ là cung cấp cho nó một đối tượng nghiên cứu duy nhất: vị trí hay khu vực. Hettner lập luận rằng không gian và vị trí là đối với nhà địa lý, thời gian là đối với nhà sử học; nói cách khác, địa lý là một môn khoa học về không gian (bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “chora” có nghĩa là vùng, được sử dụng để tham khảo các nguyên tắc rằng bản chất của địa lý là nghiên cứu về nơi chốn hoặc vùng): “Địa lý có thể là một khoa học độc lập chỉ về không gian, đó là kiến thức về sự biểu hiện khác nhau của các phần khác nhau trên bề mặt Trái đất”. Trong các ấn phẩm của ông năm 1913 và 1915, Berg cho rằng quan niệm về cảnh quan của ông hoàn toàn phù hợp với giáo lý của Hettner về địa lý như là một khoa học về không gian. Sự nhấn mạnh tương tự cũng được tìm thấy trong cuốn sách sau này của ông về lịch sử địa lý ở Nga và trong tất cả các nghiên cứu của ông về các đới cảnh quan.

Hettner cho rằng địa lý học nghiên cứu các hiện tượng phát sinh và liên kết với nhau như là kết quả của vị trí đặc biệt của chúng trên bề mặt Trái đất. Ông sử dụng thuật ngữ “cảnh quan” cùng với các thuật ngữ khác như “các khu vực trên Trái đất”, “đất nước” và “vùng”… nên khái niệm của ông về cảnh quan không thật sự tương đồng so với quan niệm cảnh quan của Berg. Berg xem xét những mối tương

12


quan giữa các hiện tượng tự nhiên như là chìa khóa trong nghiên cứu của mình và ông kết hợp giữa những hiểu biết khoa học của trường phái Dokuchaev với các quan niệm thịnh hành của địa lý học Đức. Hettner và Berg đều không quan tâm địa lý nghiên cứu về sự phân bố các hiện tượng riêng biệt trong không gian, mà là sự liên kết giữa các hiện tượng khác nhau cùng nằm trong không gian. Trong quan điểm của Berg, một cảnh quan là một chủ thể hiện tượng tự nhiên phức tạp theo luật tự nhiên. Giá trị của Hettner đối với Berg nằm trong nhận thức rõ ràng của ông về cảnh quan như là trung tâm của địa lý [1].

Thuật ngữ cảnh quan của Nga “landshaft” có nguồn gốc từ tiếng Đức và giống hệt nhau về nghĩa. Sự sử dụng sau này của các nhà khoa học tự nhiên Đức là từ thời kỳ của Von Humboldt, và sau đó thuật ngữ đã được chấp nhận cho việc sử dụng mang tính hàn lâm bởi các nhà địa lý bao gồm Ritter, Ratzel, Schluter và Hettner. Thuật ngữ này chắc chắn được biết đến trong các nhóm địa lý của Nga trước khi xuất hiện tác phẩm của Berg về cảnh quan. Một trong những học giả người Đức có tiếng đáng kể là Siegfried Passarge đã nhắc ở trên làm việc tại Viện Kolonial và là một trong những người sáng lập địa lý cảnh quan của Đức. Công trình của Passarge về cảnh quan châu Phi xuất bản 1908, mục đích chính là phân tích các cảnh quan tự nhiên về một lục địa khổng lồ. Trong công trình tiếp sau, Passarge tiếp tục phát triển sâu hơn ý tưởng của ông về các loại cảnh quan, sự phân loại và khu vực hóa cảnh quan chính trên thế giới, trong đó sự khác biệt ở thảm thực vật tự nhiên thể hiện rõ rệt.

Những ý tưởng của Passarge có nhiều điểm tương đồng với những ý tưởng của Berg và những người Nga khác, và trong cuốn sách của ông về “Các đới địa lý”, Berg nói rằng “sau này sự nghiên cứu về các cảnh quan địa lý đã được phát triển đồng thời

- ở Đức là nhà địa lý Passarge, và trong chúng tôi là tác giả của các công trình hiện tại - dựa trên nền tảng khoa học thổ nhưỡng của Dokuchaev và của những nghiên cứu về các quần xã thực vật tự nhiên được thực hiện bởi các nhà thực vật học Nga”. Đáng chú ý là Berg và các nhà địa lý Liên Xô khác đã chỉ ra những khía cạnh của các công trình của Passarge, cho thấy bản chất tự nhiên của nó đặc biệt đối với các mối tương quan không gian giữa các thành phần cảnh quan, thiếu khía cạnh di truyền và thiếu sự nhấn mạnh về thổ nhưỡng và động vật. Các nghiên cứu của Passarge cuối cùng đã giúp thúc đẩy truyền thống sinh thái cảnh quan của Đức được thảo luận trước đây. Ở Đông Âu, bên cạnh nước Nga với bề dày truyền thống cảnh quan lâu đời, có thể kể đến Ba Lan, cảnh quan cũng được sử dụng trong lời nói hàng ngày để chỉ định một quan điểm. Trong địa lý tự nhiên thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên nhất như

13


một từ đồng nghĩa của một thể tổng hợp địa lý. Do đó, cảnh quan chỉ định bất kỳ đoạn nào của không gian địa lý, bất kể kích thước nào, được phân định bởi các đường viền tự nhiên và tạo thành một tổng thể vì các kết nối và sự phụ thuộc trong cấu trúc của nó. Cảnh quan được hiểu theo cách này được phân loại theo thứ bậc của nhiều tác giả. Các loại cảnh quan khác nhau được phân chia theo các loại hữu ích nhất định cho các hình thức hoạt động khác nhau của con người và có thể được sử dụng làm các lĩnh vực cơ bản để lập kế hoạch về cách quản lý tài nguyên thiên nhiên tối ưu [1].

1.1.2.2. Theo hướng mô tả cảnh quan

Quan niệm về cảnh quan trong các nước Tây Âu và Bắc Mỹ thường tập trung vào các cảnh quan nhân tạo bởi con người hoặc theo hiểu biết, nhận thức và thể hiện theo nhiều cách khác nhau. Cảnh quan không nhất thiết phải được phân loại là "tự nhiên" hoặc "văn hóa" bởi vì rất khó có cảnh quan tự nhiên thuần túy không có tác động của con người.

Ở Hoa Kỳ, nghiên cứu cảnh quan phần lớn là do ảnh hưởng của nhà địa lý Carl Sauer trường phái Berkeley. Sauer đã phản ứng chống lại thuyết quyết định môi trường cho rằng nó chỉ là tính thời thượng trong các nhà địa lý học Mỹ thập niên 1920 và 1930 và xây dựng đề xuất “cảnh quan văn hóa” nhằm hình thành ý tưởng cốt lõi của trường phái Berkeley về địa lý văn hóa. Trong suy nghĩ của Sauer và trường phái của ông, cảnh quan văn hóa là biểu hiện tự nhiên trên bề mặt Trái đất của sự tương tác giữa con người với thiên nhiên, làm khuôn mẫu trước đây là một cảnh quan “tự nhiên” (tuy nhiên, như những nghiên cứu gần đây hơn đã chỉ ra, chỉ có rất ít hoặc gần như không có những cảnh quan trên Trái đất hiện nay có thể được gọi là “tự nhiên” thực sự) trong những định hình cho nhu cầu của con người. Không giống như Berg và các nhà khoa học Nga, trường phái Berkeley cho rằng con người và các hoạt động của con người là mối quan tâm cốt lõi trong nghiên cứu các cảnh quan. Ở Vương quốc Anh, nơi mà ảnh hưởng trực tiếp của Sauer còn hạn chế, một cách tiếp cận nhân văn với ý tưởng cảnh quan cũng đã trở nên nổi bật, phần lớn qua các nghiên cứu địa lý lịch sử của cảnh quan được các nhà sử học ghi lại bao gồm W.G.Hoskins và các nhà địa lý học gồm Clifford Darby. Ở Hoa Kỳ, cách tiếp cận của Sauer với các cảnh quan văn hóa tiếp tục thu hút những người đi theo, đặc biệt trong việc nghiên cứu các cảnh quan địa phương. Theo Olwig, cảnh quan bắt đầu được xem ít hơn như là một thực thể tồn tại trong thế giới tự nhiên hơn là một hình ảnh hoặc cảnh quan. Sự quay về “văn hóa” này dẫn đến sự đa dạng hóa rộng rãi của các nghiên cứu cảnh quan.

14


Bản thân Sauer đã hiểu rõ truyền thống địa lý học Đức, nhận thức sâu sắc về các khía cạnh tự nhiên của cảnh quan. Trong bài tiểu luận cổ điển của ông năm 1925 “Hình thái học của cảnh quan”, Sauer đã có nghiên cứu lâu dài về đặc tính tự nhiên của cảnh quan, có liên quan mật thiết với các đặc điểm văn hóa của cảnh quan. Olwig viết: “khái niệm cảnh quan là hầu như không thể tưởng tượng được nếu không có con người” của Sauer. Trong bài luận của mình, Sauer trích dẫn tác phẩm của nhà địa lý Đức Siegfried Passarge, một trong những người sáng lập địa lý cảnh quan ở Đức. Passarge đã lập luận rằng cảnh quan nên được xem như là một thiết bị trung tâm cho việc tổ chức có hệ thống của cả dữ liệu tự nhiên và con người tập trung trong một khu vực để phân tích khoa học. Sauer đã sử dụng phương pháp tiếp cận của Passarge làm cơ sở cho phương pháp địa lý của mình, mà ông gọi là một “hình thái của cảnh quan”. Theo Sauer, không thể bỏ qua hoặc giảm thiểu đặc tính tự nhiên của cảnh quan, mặc dù xã hội con người là trọng tâm của mối quan tâm của ông. Sauer khẳng định rằng “khu vực tự nhiên là nền tảng cho bất kỳ nghiên cứu địa lý nào bởi vì nó cung cấp vật liệu mà người ta xây dựng nền văn hóa của mình”.

Sự quan tâm của Sauer về đặc tính tự nhiên của cảnh quan, cùng với mối quan tâm đối với tác động ngày càng tăng của con người lên môi trường đã tạo ra một động lực thúc đẩy sự phát triển của sinh thái văn hóa. Một số học giả đã cho rằng mặc dù Sauer đã không đặc biệt nhấn mạnh khái niệm “sinh thái” để mô tả các nghiên cứu của mình nhưng ông có thể được coi là một trong những người khởi xướng quan điểm “sinh thái văn hóa”. Như Turner đã lập luận rằng sinh thái văn hóa “đại diện cho việc duy trì sự quan tâm các cảnh quan trường phái Sauer (bao gồm cả lịch sử), tập trung lại trong một khuôn mẫu thân thiện với khoa học”. Tuy nhiên, theo quan điểm của Turner, tác động của các cách tiếp cận mối liên quan giữa con người - môi trường trong địa lý nói chung đã bị hạn chế (ít nhất ở Hoa Kỳ) bởi sự bá quyền tổng thể của cái mà ông gọi là mô hình “không gian - vùng” [1].

Trong khi đó một sự phát triển song song với sự phát triển của sinh thái văn hóa xảy ra ở Đức. Đây là một đóng góp lớn cho địa lý học cảnh quan đã được thực hiện bởi Carl Troll trước chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng trên một truyền thống có từ thời Alexander von Humboldt và ông bắt đầu mô tả như là “sinh thái cảnh quan”. Theo quan niệm này, sinh thái cảnh quan đặc biệt tập trung vào các cảnh quan châu Âu, đã tham gia nghiên cứu về cả hoạt động của con người lẫn các quá trình và cấu tạo tự nhiên mang tính khoa học và được áp dụng trong cách tiếp cận, đồng thời coi khí hậu và các quá trình sinh học như là trung tâm đối với sự nghiên cứu của địa

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 13/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí