Những người không được quyền hưởng di sản theo qui định của pháp luật hiện hành - 2

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về người thừa kế và người không được quyền hưởng di sản.

Chương 2: Người thừa kế không được quyền hưởng di sản.

Chương 3: Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện những qui định về người không có quyền hưởng di sản.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN


1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ‌


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

1.1.1. Khái niệm thừa kế

Thừa kế là một quan hệ xã hội, là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật. Thừa kế xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và sự phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời sơ khai của xã hội loài người đã xuất hiện quan hệ sở hữu do đó thừa kế đã có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ này. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc. Chế độ mẫu hệ với địa vị chủ đạo của người phụ nữ đã tạo ra tiền đề cho việc thừa kế tài sản của các con và những người thân thuộc của người mẹ. Ph. Ăngghen viết:

Những người không được quyền hưởng di sản theo qui định của pháp luật hiện hành - 2

Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và trật tự thừa kế lúc ban đầu trong thị tộc, thì chỉ những người cùng họ hàng trong thị tộc đã chết. tài sản phải để lại trong nội bộ thị tộc. vì tài sản để lại không có giá trị gì cho lắm nên trong thực tiễn có lẽ là từ xưa người ta vẫn trao tài sản cho những người bà con thân thuộc nhất về phía người mẹ… Lúc đầu chúng thừa kế người mẹ cùng với những người cùng huyết tộc với mẹ chúng, về sau có thể chúng là người đầu tiên kế thừa mẹ chúng [1, tr. 86-87].

Như vậy vào thời kỳ nguyên thủy, việc thừa kế được hình thành theo tập quán của thị tộc. Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ chết đi thì di sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài

sản của thị tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế đầu tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc sống chung cho thị tộc.

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã làm thay đổi địa vị của người phụ nữ. Sự ra đời của nhiều ngành nghề mới như nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt đòi hỏi sức khỏe và trí tuệ của người đàn ông, sản phẩm lao động mà người đàn ông làm ra không những đủ nuôi sống gia đình mà còn tạo ra nhiều của cải dư thừa. Địa vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc bộ lạc dần dần được thiết lập. Đặc biệt khi nhà nước ra đời và qui định chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã làm cho con cái biết rõ cha mẹ mình. Từ đó trong quan hệ gia đình xác lập huyết thống theo họ cha và chế độ gia đình phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ. Chế độ mẫu hệ đã dần mờ nhạt thay bằng chế độ phụ hệ với vai trò gia trưởng đặc trưng của người đàn ông. Các con trong gia đình có huyết thống với người cha sẽ mang họ cha và được thừa kế tài sản của cha "thế là huyết thống theo họ mẹ và quyền thừa kế theo mẹ đã bị xóa bỏ, huyết tộc theo họ cha và thừa kế cha được xác lập". Như vậy qua mỗi một thời kỳ, qua mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội loài người tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình thì việc điều chỉnh quan hệ sở hữu có thay đổi dẫn theo sự thay đổi của các quan hệ thừa kế đó là do các nguyên nhân về kinh tế, về quan hệ huyết thống, và về quan hệ hôn nhân trong xã hội quyết định.

Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan. Thừa kế xuất hiện nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để xuất hiện quan hệ sở hữu thì thừa kế là phương tiện duy trì củng cố quan hệ sở hữu.

Khi xã hội phân chia thành giai cấp và chế độ tư hữu được hình thành, giai cấp thống trị chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất và truyền lại cho con cháu nên địa vị thống trị được củng cố từ đời này sang đời khác. Việc thừa kế

tài sản là sự chuyển dịch công cụ, phương tiện bóc lột của giai cấp thống trị cho con cháu nhằm tiếp tục xác lập quyền lực về chính trị, kinh tế đối với những người lao động.

Qua các thời kỳ phát triển của xã hội loài người quan hệ thừa kế có tính kế thừa các giá trị vật chất và tinh thần của gia đình và dòng tộc. những thành quả lao động của gia đình như nhà ở và những của cải để dành khác, đây là những thành quả lao động mà thế hệ trước để lại cho thế hệ sau bởi nhà ở và các tài sản khác không những là tài sản có giá trị lớn mà nó còn thể hiện giá trị văn hoá đã tồn tại và phát triển qua các thời kỳ lịch sử.

Ở Việt Nam, việc thừa kế di sản đã hình thành theo tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, thậm chí việc chia di sản thừa kế còn theo truyền thống của dòng tộc. Con cháu trong gia đình được hưởng di sản từ ông bà, cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con cháu nhớ công ơn của người đã chết. Đây là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam được lưu truyền đến ngày hôm nay và được kế thừa cho đến mai sau. Với quan điểm cho rằng những quan hệ hôn nhân và gia đình sinh ra con người, gia đình và xã hội và từ đó trở thành nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng khác trong tự nhiên và trong xã hội. Ở Việt Nam, dân tộc Chăm có những nét văn hóa, phong tục rất điển hình về quan hệ gia đình. Xã hội của người Chăm ở Ninh Thuận là xã hội tổ chức theo chế độ mẫu hệ nên vai trò của người phụ nữ trong xã hội được đề cao. Họ quan niệm rằng:

"Likei dơng di mưthut, kamei dơng di mưnưk" có nghĩa là " Phận của đàn ông là chiến đấu, phận của đàn bà là sinh nở" tức là phụ nữ phải cai quản gia đình, đàn ông toàn quyền cai quản xã hội. Chính quan niệm như thế nên chế độ mẫu hệ đã tồn tại cùng lịch sử xã hội Chăm. Và từ đó mà trong hệ thống luật tục của người Chăm ở Ninh Thuận qui định về thừa kế rất đơn giản. Người con gái út được hưởng toàn bộ hay hầu hết của cải của gia đình như quần áo cúng tế, nồi đồng, mâm đồng, chén bát… để thờ cúng tổ tiên.

Đối với các loại tài sản khác như nhà cửa, ruộng vườn, trâu bò… khi cha mẹ còn sống thì có thể trích cho con gái lớn một phần tài sản khi họ lập gia đình ở riêng, trích một phần cho con trai làm của hồi môn khi được vợ cưới, còn khi cha mẹ chết thì phần lớn tài sản do con gái út thừa kế, phần nhỏ chia cho chị gái. Luật tục cũng không qui định cụ thể là chia bao nhiêu tất cả do em gái út quyết định. Các anh, em trai không được quyền hưởng tài sản thừa kế của cha mẹ dù anh ta có công đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình khi cha mẹ còn sống. Có thể đưa ra một số nguyên nhân lý giải về vấn đề này, trong gia đình người Chăm con gái lớn khi lập gia đình thường tách ra ở riêng, con trai thì về nhà vợ nên ở lại với cha mẹ phần lớn lúc cao tuổi chỉ còn con gái út. Con gái út vì thế có công trong việc giữ gìn và phát triển khối tài sản của gia đình và cũng chính người con gái út là người có trách nhiệm cúng tế trong gia đình và phải chăng vì lẽ đó tài sản của cha mẹ thuộc về con gái út.

"Thừa kế" theo Từ điển Tiếng Việt là "hưởng của người đã chết để lại cho" [37, tr. 938] hưởng ở đây chính là sự dịch chuyển quyền sở hữu những tài sản cũng chính là những của cải mà người chết để lại cho người còn sống. Nội dung của sự dịch chuyển này có thể theo phong tục tập quán hoặc theo qui định của pháp luật phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể.

Như vậy, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống theo truyền thống, phong tục tập quán của từng dân tộc. Người hưởng tài sản có nghĩa vụ duy trì, phát triển những giá trị vật chất, tinh thần và những truyền thống, tập quán do thế hệ trước để lại.

1.1.2. Quyền thừa kế

Nếu thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả trong một xã hội chưa phân chia thành giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật thì quyền thừa kế chỉ có thể sinh ra và tồn tại trong những xã hội đã phân chia giai cấp, trong xã hội đã có nhà nước và pháp luật. Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, nhà nước qui định quyền để lại thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể,

qui định trình tự và các điều kiện dịch chuyển tài sản cũng như qui định các phương thức dịch chuyển tài sản từ người chết sang những người còn sống khác. Tuy nhiên, mỗi một chế độ xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau trong qui định về quyền thừa kế. Thậm chí ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở từng giai đoạn khác nhau sẽ có sự khác nhau trong qui định về quyền thừa kế. Điều đó có nghĩa là chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội của một nhà nước và đặc biệt là do chế độ sở hữu quyết định. Vì vậy trong mỗi chế độ xã hội, chế độ thừa kế thường tồn tại tương ứng và có liên quan mật thiết, song song tồn tại với chế độ sở hữu. Từ việc pháp luật qui định chế độ sở hữu cùng với các quyền năng đối với tài sản của cá nhân thì theo đó pháp luật qui định cho họ những quyền năng trong lĩnh vực thừa kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy quyền thừa kế luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc, là phương tiện để duy trì, củng cố quyền sở hữu trong mỗi chế độ xã hội khác nhau.

Căn cứ vào các qui định của pháp luật về thừa kế, có thể hiểu quyền thừa kế theo hai nghĩa sau:

Theo nghĩa khách quan: Theo qui định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [27]. Như vậy có thể khái quát quyền thừa kế là tổng hợp các qui định của pháp luật qui định những trình tự để lại di sản, nhận thừa kế và quyền khởi kiện dân sự yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền của người để lại di sản và quyền của người hưởng thừa kế di sản.

Theo nghĩa chủ quan: Quyền thừa kế được hiểu là quyền của mỗi cá nhân trong việc để lại di sản của mình cho những người thừa kế, quyền nhận di sản thừa kế do người khác để lại và quyền khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền thừa kế của mình theo thời hiệu pháp luật qui định.

Như vậy, quyền thừa kế là quyền tự quyết của người nhận di sản. Quyền thừa kế chỉ có thể được thực hiện khi người có di sản chết, những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người để lại di sản thể hiện ý chí nhận di sản hoặc từ chối nhận di sản thừa kế của người để lại di sản.‌


1.2. KHÁI NIỆM NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

1.2.1. Khái niệm người thừa kế

Người thừa kế là người được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật mà người chết để lại. Có hai loại người thừa kế đó là người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Trong đó người được thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người để lại di sản nên họ có thể là cá nhân bất kỳ miễn là người để lại di sản thể hiện ý chí của mình thông qua việc lập di chúc để lại tài sản cho họ, ngoài ra người được hưởng thừa kế theo di chúc có thể là cơ quan, tổ chức hoặc chủ thể khác. Người được hưởng thừa kế theo qui định của pháp luật bao giờ cũng là cá nhân những người được xác định dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng với người để lại di sản.

Điều 635 Bộ luật Dân sự năm 2005 qui định:

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức phải còn tồn tại cho đến thời điểm di chúc được mở [27].

Theo qui định của điều luật trên, cá nhân chỉ được coi là người thừa kế khi cá nhân đó:

Thứ nhất: Phải là người còn sống cho đến thời điểm mở thừa kế thì mới có quyền hưởng di sản. Với đặc trưng cơ bản của thừa kế là sự tiếp nối về

sở hữu tài sản giữa người còn sống với người đã chết nên người tiếp nhận di sản phải là người còn sống. Sẽ không có ý nghĩa nếu tài sản được dịch chuyển từ một người chết này sang một người chết khác, việc xác định một người còn sống vào thời điểm mở thừa kế phải được xét trong một diện rộng, bởi vẫn có những trường hợp một người đã chết trên thực tế nhưng vẫn được coi là còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Chẳng hạn như một người vẫn còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng cho đến thời điểm phân chia di sản thì họ đã chết thì họ vẫn có quyền được hưởng di sản. Tuy nhiên phần di sản mà họ được hưởng sẽ được coi là di sản mà họ để lại và sẽ được chia cho những người thừa kế của họ.

Thứ hai: Phải thành thai trước khi người để lại di sản chết nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.

Khoản 1 Điều 635 Bộ luật Dân sự qui định quyền thừa kế của thai nhi đó là phải thành thai trước khi người để lại di sản chết và còn sống sau khi được sinh ra. Một người chưa được sinh ra thì chưa trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, nhưng pháp luật dân sự đã qui định bảo lưu quyền thừa kế của thai nhi với điều kiện người đó đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Qui định này nhằm để bảo vệ quyền của người thừa kế, đặc biệt là quyền của người con đã thành thai khi người cha còn sống và được sinh ra sau khi người cha đã chết.

Với qui định người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, để xác định tình trạng "còn sống" hay "đã chết" đối với một đứa trẻ có thể xác định vấn đề này theo qui định của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch để xác định tình trạng còn sống hay đã chết đối với một đứa trẻ sinh ra rồi mới chết:

+ Tại Điều 20 qui định khai sinh cho trẻ em sinh ra rồi mới chết. "Trẻ em sinh ra và còn sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết thì cũng phải đăng ký

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/01/2024