Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng - 4

Bảng 4.9. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể

Stt

Nhóm bệnh chữa trị

Nùng

Tày

Dao

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

1

Nhóm thuốc bổ ( Bổ thận, bổ

tim )

10

17,54

4

17,39

1

7,69

2

Nhóm bệnh đường tiêu hóa

(Đau bụng,đau dạ dày, viêm

loét dạ dày,…)

8

14,04

6

26,09

1

7,69

3

Nhóm bệnh hệ thần kinh

(thần kinh tọa, cao huyết áp,

đau răng, bệnh tim.)

8

14,04

4

17,39

2

15,38

4

Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động (Đau khớp, Gãy xương, Phong thấp,

Gút)

8

14,04

5

21,74

1

7,69

5

Nhóm bệnh về đường hô hấp (Ho gió, viêm họng,

hen.)

7

12,28

3

13,04

0

0,00

6

Nhóm bệnh do động vật cắn(rắn cắn, rết cắn)

5

8,77

0

0,00

2

15,38

7

Nhóm bệnh đường tiết niệu (thận hư, đái dắt.)

3

5,26

1

4,35

2

15,38

8

Nhóm bệnh cảm cúm (sốt )

3

5,26

1

4,35

0

0,00

9

Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý (Băng huyết, vô sinh nam, viên phụ

khoa )

2

3,51

0

0,00

2

15,38

10

Nhóm bệnh ngoài da (Dị

ứng, mụn nhọt, bỏng)

2

3,51

1

4,35

0

0,00

11

Nhóm bệnh về gan (xơ gan, gan )

2

3,51

0

0,00

1

7,69

12

Nhóm bệnh về ngộ độc

(Giải nhiệt)

1

1,75

0

0,00

0

0,00

13

Nhóm bệnh về ung bướu

(bệnh máu trắng.)

1

1,75

0

0,00

0

0,00

14

Nhiễm trùng vết thương, cầm máu

0

0,00

0

0,00

2

15,38

Tổng số

60

105,26

25

108,70

14

107,69

Tổng số loài điều tra được của mỗi dt

57

23

13

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 44 trang tài liệu này.

Chú thích: Tỉ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa nhiều nhóm bệnh khác nhau

3

Nhiễm trùng vết thương, cầm máu

0,00

15,38

Nhóm bệnh về ung bướu

0,00

0,00

Nhóm bệnh về ngộ độc

0,00 1,75

0,00 1,75

0,00

Nhóm bệnh về gan

0,00

7,69

Nhóm bệnh ngoài da

0,00

3,51

4,35

,51

Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý

0,00

15,38

3,51

Nhóm bệnh cảm cúm

0,00

4,35

5,26

Nhóm bệnh đường tiết niệu

4,35

5,26

15,38

Nhóm bệnh do động vật cắn

15,38

Dao Tày

Nùng

Nhóm bệnh về đường hô hấp

0,00

0,00

8,77

12,28

13,04

Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động

7,69

14,04

21,74

Nhóm bệnh hệ thần kinh

15,38

14,04

17,39

Nhóm bệnh đường tiêu hóa

7,69

14,04

26,09

Nhóm thuốc bổ

7,69

0

4

8

12

16

Tỷ lệ %

17,39

17,54

20

24

28

Nhóm bệnh chữa trị

Hình 4.2. Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại xã Vân Trình

Từ kết quả Bảng 4.9 cho thấy có 14 nhóm bệnh khác nhau được cộng đồng 3 dân tộc Nùng, Tày và Dao sử dụng các loài cây thuốc để điều trị, trong đó người Nùng biết sử dụng thuốc để điều trị 13 nhóm bệnh, người Tày biết sử dụng cây thuốc để điều trị 8 nhóm bệnh và người Dao biết điều trị 9 nhóm bệnh. Trong đó có nhũng căn bệnh nan y như: ung thư gan, tim mạch, thận, gan… Cụ thể:

Với cộng đồng dân tộc Nùng: Số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung lớn vào 5 nhóm bệnh là nhóm làm thuốc bổ với 10/57 loài cây (chiếm 17,54% so với tổng số loài điều tra được từ Nùng); nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động, nhóm bệnh tiêu hóa và nhóm bệnh thần kinh có số với 13/62 loài cây (chiếm 20,97%), nhóm bệnh về tiêu hóa và nhóm bệnh tiết niệu đều có 9/62 loài (chiếm 14,52%); tiếp là nhóm bệnh ngoài da với 7/62 loài (chiếm 11,29%)

Tiếp theo, với dân tộc Tày: Số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung vào 4 nhóm bệnh là nhóm bệnh về đường tiêu hóa với 6/23 loài (chiếm 26,09%), nhóm bệnh về xương khớp hệ vận động 5/26 loài (chiếm 21,74%) so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Tày, nhóm làm thuốc bổ và nhóm bệnh hệ thần kinh đều có số lượng là 4/23 loài (chiếm 17,39%)

Với cộng đồng dân tộc Dao: Những nhóm bệnh được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng các loài cây thuốc điều trị tập trung vào nhóm bệnh về đường tiết niệu, nhóm bệnh thần kinh, đương tiết niệu, nhóm bệnh về vết thương với số lượng 2/13 loài cây (chiếm 15,38% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Dao).

Nhìn chung, kinh nghiệm sử dụng nguồn tài nguyên cây cỏ làm thuốc các dân tộc thiểu số Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình tương đối đa dạng và phong phú. Trong đó, dân tộc Nùng thể hiện tính nổi bật hơn về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc thông qua số lượng loài cây thuốc biết cách sử dụng và số lượng nhóm bệnh chữa trị cho người dân.

4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc

Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, mỗi cộng đồng dân tộc đều thể hiện sự sáng tạo của riêng mình trong việc đấu tranh chóng chọi lại với bệnh tật, chính sự đấu tranh đó đã giúp cho họ tìm ra được những phương pháp trong việc điều trị các bệnh tật cũng như chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng mình từ việc sử dụng các loại cây cỏ có sẵn trong tự nhiên. Cho đến ngày nay những kinh nghiệm đó đã được người dân ở xã Vân Trình huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng đúc kết và học hỏi qua nhiều thế hệ, đã trở thành những kinh nghiệm quý báu. Chính sự học hỏi qua lại giữa các dân tộc đã tạo nên sự giao thoa giữa các dân tộc với nhau trong việc sử dụng các loài cây cỏ trong điều trị và phòng chống bệnh. Trong quá trình điều tra, nghiên cứu tôi nhận thấy giữa các dân tộc ở xã Vân Trình có sự giao thoa trong việc sử dụng cùng một cây thuốc để điều trị các bệnh, kết quả được thể hiện ở Bảng 4.11 sau:

Bảng 4.10. Danh sách cây thuốc được cả 3 dân tộc ở KVNC sử dụng

Stt

Tên khoa học

Tên Việt Nam

Tên dân tộc

Công dụng

1

Paris chinensis Franch

Bảy lá một hoa

Cẳn lưởng

1. bệnh tim

2. gãy xương, hen

3. rắn cắn

2

Oroxylum indicum

(L.) Kurz

Núc nác

Ca liệng

1. Bại liệt, kháng sinh

2. Kháng sinh đường ruột 3.Tim, máu,gan

Chú thích: Tên dân tộc: 1. Nùng, 2. Tày, 3. Dao

Qua những dẫn liệu trên cũng như từ quá trình điều tra nghiên cứu tại KVNC tôi đã thống kê được 2 loài cây thuốc được cả 3 cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao cùng sử dụng chung để phòng và điều trị bệnh. Trong đó loài Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh tim, còn cộng đồng dân tộc Tày sử dụng để điều trị gãy xương, bệnh hen, bên cạnh đó cộng đồng dân tộc Dao lại có kinh nghiệm sử dụng khác là dùng để điều trị rắn cắn; loài Núc nác - Oroxylum indicum (L.) Kurz được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh bại liệt làm thuốc kháng sinh, cùng với dân tộc Tày cộng đồng này cũng sử dụng để làm thuốc kháng sinh, tuy nhiên cộng đồng dân tộc dao lại sử dụng làm thuốc chữa tim, gan.

So sánh với nghiên cứu của tác giả Hoàng Văn Sinh (2020), nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Đức Thông, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng cho thấy cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao ở xã Đức thông, huyện Thạch An có sự giao thoa về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc đa dạng hơn so với cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình, cụ thể ở xã Đức Thông có 8 loài được cả 3 dân tộc cùng sử dụng, còn ở xã Vân Trình chỉ có 2 loài được 3 cộng đồng cùng sử dụng.

4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Vân Trình‌

Để biết được những vấn đề truyền thụ kiến thức trong cộng đồng các dân tộc ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, chúng tôi đã tiến hành điều tra phỏng vấn 8 thầy thuốc đã từng sử dụng các bài thuốc chữa bệnh trong các cộng đồng. Khi tiến hành phỏng vấn và thống kê số liệu liên quan đến việc truyền thụ kiến trong cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao tại KVNC thì tôi nhận thấy rằng cả 9 người đều là nam giới. Đều này có thể giải thích bởi theo phong tục phổ biến ở các dân tộc đó là nam giới thường là chủ gia đình mà bên cạnh đó có những dân tộc chỉ truyền nghề thuốc cho nam giới. Bên cạnh đó, việc đi rừng tìm kiếm thuốc thường gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm nên nam giới phù hợp hơn nữ giới. Kết quả điều tra được thể hiện trong Bảng 4.11.

Bảng 4.11. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC

Stt

Dân tộc

Số thầy thuốc phỏng vấn

Tỉ lệ %

1

Nùng

5

55,56

2

Tày

3

33,33

3

Dao

1

11,11

Tổng

9

100,00

Kết quả Bảng 4.11 cho thấy, tại KVNC số thầy lang tập trung chủ yếu ở cộng đồng dân tộc Nùng, chiếm 55,56% so với tổng số thầy lang, bà mé đã điều tra được, bởi lễ dân tộc Nùng chiếm số lượng nhiều hơn là bởi vì dân tộc Nùng là dân tộc chiếm phần lớn các dân tộc ở khu vực nghiêm cứu, là dân tộc đã cư trú từ lâu đời nên vấn đề truyền thụ kiến thức phòng chữa bệnh được truyền tải tốt hơn. Còn dân tộc Tày chiếm 33,33% và Dao chỉ chiếm 11,11% so với tổng số thầy lang bà mé được điều tra.

Bảng 4.12. Độ tuổi của các thầy thuốc tại KVNC

Nhóm tuổi

Giới tính

Số người

Tổng

>75

Nam

0

0

Nữ

0

50-75

Nam

9

9

Nữ

0

25-49

Nam

0

0

Nữ

0

<25

Nam

0

0

Nữ

0

Tổng số nam

9

9

Tổng số nữ

0

Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4.12 cho thấy, người làm nghề thầy thuốc ở khu vực nghiên cứu chỉ có nam giới và thuộc độ tuổi 50 -75. Điều này dễ giải thích theo truyền thống nghề này đa số được truyền thụ theo huyết thống gia đình, nếu khi bố mẹ còn sống họ sẽ giữ vai trò chính trong việc bốc thuốc và dạy lại cho con cái mình qua quá trình tích lũy dần dần. Khi bố mẹ già yếu không thể tiếp tục làm nghề nữa mới chính thức truyền lại cho con cái, lúc đó độ tuổi thông thường của con cái họ giao động khoảng 40 tuổi. Sau một số năm kinh nghiệm làm nghề thì độ tuổi của các ông lang bà mế nhiều nhất là khoảng 50 - 75 tuổi.

Nhóm tuổi từ 25 – 49 thì đây được coi nhóm người lao động chính trong gia đình, họ thường tập trung vào trong lao động sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh để đáp ứng nhu cầu cuộc sống gia đình họ, do vậy họ hầu như chưa có thời gian được tiếp thu những bài thuốc từ những người lớn tuổi. Bên cạnh đó những người trẻ dưới 25 tuổi hầu như không tham gia vào việc thu thập cây thuốc, điều này có thể lí giải là ở độ tuổi này chủ yếu là độ tuổi còn

đang đi học, tham gia các hoạt động xã hội, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vốn sống và những kiến thức bản địa của ông cha truyền lại.

Tóm lại, những thầy lang có kinh nghiệm trong việc sử dụng các loài cây thuốc tập trung độ tuổi từ 50 trở lên. Do đó, việc phát giữ gìn và tiếp thu những giá trị truyền thống tốt đẹp đó là hết sức cần thiết.

4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu

Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở KVNC trong việc phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn, tôi tiến hành lựa chọn cây Huyết đằng - Sargentodoxa cuneata (Oliv.), Bòng bong - Lygodium flexuosum (L.) Sw. để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây. Kết quả thể hiện ở Bảng 4.13 và Hình 4.3 Bảng 4.13. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ một số loài cây thuốc

được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở KVNC

Đơn vị tính: mm

Cao chiết

Vi khuẩn

BB

K1

K2

Dung môi

S. aureus

23,8±0,7

18,7±0,9

19,2±1,2

24,3±1,1

0

E. coli

25,1±0,6

24,5±0,7

21±0,5

20,2±0,9

0

HĐ: Huyết đằng; BB: Bòng bong; K1: kháng sinh Aminkacin (đối chứng dương); K2: Kháng sinh Kanamicin (đối chứng dương); Dung môi: đối chứng âm

Qua dữ liệu trên cho thấy, 2 loài khảo sát (Huyết đằng và Bòng bong) đều có hoạt tính ức chế đối với vi khuẩn gây bệnh đại diện nhóm vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Trong đó, cả 2 loài khảo sát đều có khả năng ức chế trực khuẩn đường ruột (E. coli) mạnh hơn so với tụ cầu vàng (S. aureus). Đối với vi khuẩn Gram dương (S. Aureus), Huyết đằng có hoạt tính ức chế vi khuẩn mạnh hơn với vòng ức chế đạt được là 23,8 mm, Bòng Bong có hoạt tính ức chế vi

khuẩn thấp hơn với vòng ức chế đạt được 18,7 mm. Đối với vi khuẩn Gram âm (E. coli), Huyết đằng có hoạt tính ức chế vi khuẩn mạnh hơn với vòng ức chế đạt được là 25,1 mm, Bòng bong vẫn là loài có hoạt tính ức chế vi khuẩn thấp hơn với vòng ức chế đạt được 24,5 mm. Như vậy, Huyết đằng có khả năng ức chế vi khuẩn Gram âm (E. coli) và Gram dương (S. aureus) mạnh hơn so trong 2 loài thực vật khảo sát.

So sánh khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh của bốn loài cây khảo sát với kháng sinh đối chứng cho thấy: hoạt tính ức chế vi khuẩn tụ cầu vàng (S. aureus) của cả 2 loài thực vật đều thấp hơn so với kháng sinh Kanamicin ở nồng độ khảo sát. Nhưng so với hoạt tính ức chế tụ cầu vàng của kháng sinh Akamicin thì loài Huyết đằng có hoạt tính ức chế mạnh hơn, còn Bòng bong có hoạt tính ức chế kém hơn. Đối với hoạt tính ức chế trực khuẩn đường ruột (E. Coli) thì cả 2 loài thực vật đều có hoạt tính ức chế mạnh hơn hai kháng sinh Akamicin và Kanamicin ở nồng độ khảo sát.

Từ kết quả phân tích HTKK tôi đề xuất, có thể sử dụng bốn loài cây Huyết đằng và Bòng bong để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli gây ra. Đặc biệt cây Huyết đằng có khả năng ức chế vi khuẩn mạnh hơn trong 2 loài cây khảo sát. Kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu.

Hình 4.3. Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Huyết đằng, Bòng bong

Chú thích: TVC: Staphylococus aureus; E. coli: Escherichia coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); K1: Đối chứng dương (Amikacin); K2: Đối chứng dương (Kanamicin); HĐ: Huyết đằng; BB: Bòng bong

5.1. Kết luận‌‌

PHẦN 5

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

Quá trình điều tra, nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, chúng tôi đã thu được những kết quả như sau:

- Quá trình điều tra nghiên cứu đã điều tra được 82 loài thực vật thuộc ngành Ngọc lan, thuộc 80 chi và 63 họ. Có 3 họ nhiều loài nhất là học Cam (Rutaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae) và họ Ráy (Araceae) tất cả đều có 3 loài.

- Đề tài xác định được 6 dạng sống trong đó dạng sống là thân thảo được sử dụng nhiều nhất với 33 loài, dây leo 27 loài, gỗ nhỏ 12 loài, bụi 10 loài, gỗ trung bình 4 loài và gỗ lớn 6 loài.

- Đã tìm hiểu được môi trường sống chủ yếu của các loài cây thuốc là ở lang xóm, làng bản, vườn với 44 loài, ở rừng là 32 loài, đồi cây bụi, trảng cỏ là 22 loài và ven sông 2 loài.

- Đã thống kê được 8 loài cần bảo tồn, trong đó có 4 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam 2007, 6 loài có tên trong Nghị Định 06/2019/NĐ – CP và 4 loài có tên trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006.

- Đã xác định được có 8 bộ phận khác nhau được sử dụng theo kinh nghiệm của các cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại xã Xã Vân Trình, trong đó bộ phận cả cây, lá, rễ là 3 bộ phận có tần số được sử dụng nhiều nhất trong chữa trị bệnh cho người dân nơi đây.

- Đã thống kê được 14 nhóm bệnh khác nhau được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại khu vực nghiên cứu. Trong đó số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập

trung phần lớp vào các nhóm bệnh là: Nhóm làm thuốc bổ; bệnh về xương khớp, hệ vận động; bệnh về tiêu hóa; nhóm bệnh hệ thần kinh.

- Qua kết quả điều tra về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của 3 cộng đồng Nùng, Tày và Dao đã xác định được có 2 loài cây cỏ được cả 3 cộng đồng dùng trong phòng và chữa bệnh đó là 2 loài Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch và Núc nác - Oroxylum indicum (L.) Kurz.

- Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Huyết đằng và Bòng bong để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra.

5.2. Kiến nghị

- Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai.

- Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà cộng đồng dân tộc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng sử dụng.

- Xây dựng những vườn thuốc trong gia đình cho những gia đình lương y hay những gia đình có những người biết sử dụng thuốc ở các thôn bản để bảo vệ nguồn gen quý và hướng dẫn cách trồng hái, chế biến cho phù hợp.

- Với những loài cây thuốc thuộc dạng quý hiếm cần hướng dẫn nhân dân nhận biết và tiến hành bảo vệ rừng, hạn chế khai thác một cách cạn kiệt các loài cây thuốc để bán sang Trung Quốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng việt

1. Đỗ Huy Bích (2004), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nxb

2. Hờ A Bình (2019) “Nghiên cứu về đa dạng tài nguyên cây thuốc của người Hmong, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật. Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.

4. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật.

5. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb Y học.

6. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”. Tạp chí Sinh học, tập 23.

7. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), “Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 2. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.

8. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội.

9. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, tập 1-2.

10. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Nghị định 06/2019/NĐ-CP về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã.

11. Vũ Văn Chuyên (1976), Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc, Nxb Y học Hà Nội.

12. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), “Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 3. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.

13. Nguyễn Thượng Dong (2006), “Nghiên cứu thuốc từ thảo dược” (Giáo Trình sau đại học). Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.

14. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

15. Nông Thu Hằng (2019) “Nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sử dụng một số cây dược liệu (lâm sản ngoài gỗ) tại vườn quốc gia Phia Oắc- Phia Đén, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

16. Nguyễn Minh Hiếu (2019) “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nặm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Dao”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

17. Phạm Hoàng Hộ (1999 – 2000), Cây cỏ Việt Nam, Nxb trẻ, Tp Hồ Chí Minh. Tập 1 – 3.

18. Phạm Hoàng Hộ (2000), "Cây cỏ Việt Nam”, Nhà xuất bản trẻ, Tp. Hồ Chí Minh

19. Nông Thái Hòa (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

20. Dương Văn Hưng (2018) “Nghiên cứu tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

21. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb Thanh niên.

22. Quàng Văn Kiêm (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Kim Đồng, huyện Thạnh An, tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.

23. Vàng A Lả (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh

Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

24. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

25. Trần Đình Lý (1995), 1900 loài cây có ích, Nxb Thế giới, Hà Nội.

26. Lương Minh Ngọc (2018) “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru – Việt Kiều ở Xã Thượng Trạch, huyện Bổ Trạch, tỉnh Quảng Nam”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

27. Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011), Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

28. Lò Thị Quý (2018) “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

29. Lục Thanh Sắc (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

30. Hoàng Văn Sinh (2020) “Nghiên Cứu Tri Thức Bản Địa Sử Dụng Cây Thuốc Tại Xã Đức Thông, Huyện Thạnh An, Tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

31. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội.

32. Hoàng Thị Thanh (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Hà Nhì”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

33. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb. Y học, Hà Nội.

34. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà nội.

35. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội.

36. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), “Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 3 - Những vấn đề cơ bản trong Khoa học Sự sống, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

37. Vàng Văn Trung (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hmông tại xã Trung Lèng, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”, Khóa luận tốt nghiệp Đại Học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

38. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3.

39. UBND xã Vân Trình (2019), Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội xã Vân Trình năm 2019 phương hướng nhiệm vụ năm 2020.

40. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam – Chương Trình tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc (KV.02), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005), Bước đầu tìm hiểu cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số ở việt nam, sách Nam Bộ Dân tộc và tôn giáo, 165-190.

42. Nguyễn Thị Thanh Vân (2015), Tìm hiểu tri thức sử dụng cây cỏ trong chăm sóc sức khỏe của người H’Mông, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 4, 53-58.

B. Tiếng nước ngoài

43. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto,

Xem tất cả 44 trang.

Ngày đăng: 15/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí