BN nhi điều trị viêm phổi tại bệnh viện trên 14 ngày (4,4%). Sự khác biệt giữa các nhóm thời gian điều trị là có ý nghĩa thống kê.
4.3.2. Sự cải thiện các triệu chứng lâm sàng
Bảng 3.22. Sự cải thiện triệu chứng viêm phổi trước và sau điều trị
Trước điều trị | Sau điều trị | P | ||||
Bệnh nhân | Tỷ lệ % | Bệnh nhân | Tỷ lệ % | |||
Ho | 172 | 94,5 | 2 | 1,1 | p<0.05 | |
Khó thở | 66 | 36,3 | 0 | 0 | ||
Thở nhanh | 48 | 26,4 | 0 | 0 | ||
Sốt | 178 | 97,8 | 0 | 0 | ||
Cánh mũi phập phồng | 1 | 0,6 | 0 | 0 | ||
Tím tái quanh môi và mặt | 3 | 1,7 | 0 | 0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Tích Tình Hình Sử Dụng Kháng Sinh Trong Điều Trị Viêm Phổi Ở
- Tỷ Lệ Trẻ Viêm Phổi Theo Lứa Tuổi Và Giới Tính
- Liều Dùng Của Một Số Kháng Sinh Đã Sử Dụng Trong Điều Trị
- Liều Dùng Của Một Số Kháng Sinh Đã Sử Dụng Trong Điều Trị
- Nghiên cứu tình hình sử dụng kháng sinh trong điều trị viêm phổi ở trẻ em tại Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế - 9
- Nghiên cứu tình hình sử dụng kháng sinh trong điều trị viêm phổi ở trẻ em tại Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế - 10
Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.
Nhận xét: Có sự cải thiện các triệu chứng: ho, khó thở, thở nhanh, sốt, cánh mũi phập phồng, tím tái quanh môi và mặt một cách rò rệt (p<0,05) ở các BN.
4.3.3. Đánh giá của thầy thuốc khi bệnh nhân ra viện
Bảng 3.23. Tỷ lệ bệnh nhân khỏi, giảm đỡ hay không thay đổi
Viêm phổi | Viêm phổi nặng | Tổng | ||||
Số BN | Tỷ lệ % | Số BN | Tỷ lệ % | Số BN | Tỷ lệ % | |
Khỏi | 126 | 79,2 | 6 | 26,1 | 132 | 72,5 |
Giảm, đỡ | 33 | 20,8 | 15 | 65,2 | 48 | 26,4 |
Không khỏi | 0 | 0 | 2 | 8,7 | 2 | 1,1 |
Tổng số | 159 | 100 | 23 | 100 | 182 | 100 |
Nhận xét: Hiệu quả điều trị bệnh viêm phổi ở trẻ em tại bệnh viện cao (tỷ lệ khỏi là 72,5%). Chỉ có 2 BN (1,1%) được thầy thuốc điều trị đánh giá là không khỏi.
CHƯƠNG 5: BÀN LUẬN
5.1. Đặc điểm của bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu
5.1.1. Đặc điểm lứa tuổi, giới tính của bệnh nhân nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi ở nam
nhiều hơn nữ,
ở trẻ
nhỏ
nhiều hơn trẻ
lớn. Điều này phù hợp với nhiều
nghiên cứu khác.
Cụ thể, trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ
lệ bị
viêm phổi ở
nam
(57,7%) lớn hơn ở nữ (42,3%). Độ tuổi mắc bệnh cao nhất là 05 tuổi (84,6%) sau đó giảm dần theo chiều tăng lứa tuổi, từ >1016 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất (3,8%). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hiền Lương tỷ lệ nam mắc bệnh (70%) cao gấp 2,23 lần so với nữ (30%); trẻ từ 212 tháng có tỷ lệ mắc cao nhất 56,0% và giảm dần theo chiều tăng của lứa tuổi [14]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai Hòa tỷ lệ bệnh nhi nam (54,86 %) cao hơn bệnh nhi nữ (45,12%); lứa tuổi hay gặp bị viêm phổi nhất là 112 tháng tuổi (28,75%) và giảm dần khi lứa tuổi tăng lên; từ 4860 tháng chỉ chiếm 10,62% [10]. Theo nghiên cứu của Trần Thị Anh Thơ tỷ lệ bị viêm phổi ở nam (63,75%) lớn hơn ở nữ (36,25%); độ tuổi mắc bệnh cao nhất là 212 tháng tuổi (65,63%) sau đó
giảm dần theo chiều tăng lứa tuổi, từ (2,5%) [17].
4860 tháng chiếm tỷ
lệ thấp nhất
Tỷ lệ trẻ nam mắc viêm phổi (57,7%) nhiều hơn trẻ nữ (42,3%); điều này có thể giải thích là vì trẻ nam hiếu động hơn trẻ nữ, hoạt động nhiều toát mồ hôi, dẫn đến trẻ dễ bị nhiễm lạnh, tạo điều kiện cho bệnh viêm phổi. Căn cứ vào kết quả khảo sát, cần có chế độ chăm sóc trẻ cẩn thận và chu đáo hơn, chú ý thấm mồ hôi để tránh nhiễm lạnh cho trẻ.
Trẻ nhỏ mắc bệnh nhiều hơn trẻ lớn chứng tỏ có mối liên quan giữa tỷ lệ mắc bệnh và khả năng đề kháng của trẻ, trẻ càng nhỏ thì các cơ quan, tổ chức trong cơ thể càng chưa hoàn thiện, sức đề kháng của trẻ càng yếu, trong khi trẻ phải tiếp xúc với môi trường sống có rất nhiều yếu tố gây bệnh và đôi khi không được trong sạch, bị ô nhiễm.
5.1.2. Mức độ viêm phổi của mẫu nghiên cứu
Số bệnh nhân thuộc nhóm viêm phổi nặng chiếm 12,6% thấp hơn
nhiều so với số bệnh nhân nhóm viêm phổi (87,4%); không có bệnh nhân bị viêm phổi rất nặng trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi.
Kết quả
này gần giống so với nghiên cứu của Nguyễn Thị
Hiền
Lương với tỷ lệ lần lượt bệnh nhân viêm phổi rất nặng, viêm phổi nặng,
viêm phổi là: 5%, 30%, 65% [14]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Xuân bệnh nhân viêm phổi (70,40%); viêm phổi nặng (28,4%); viêm phổi rất nặng (1,2%) [21]. Theo nghiên cứu của Phạm Xuân Phúc tỷ lệ BN viêm phổi (71,60%); viêm phổi nặng (27,18%) và viêm phổi rất nặng (1,22%) [15]. Khác so với nghiên cứu của Trần Thị Anh Thơ: số bệnh nhân thuộc nhóm viêm phổi nặng chiếm 90% lớn hơn nhiều so với số bệnh nhân nhóm viêm phổi (10%) [17].
Đối với viêm phổi rất nặng, có thể bệnh nhân được chuyển lên tuyến
Trung Ương nên không có bệnh nhân nào viêm phổi rất nặng nằm trong
nghiên cứu của chúng tôi.
5.1.3. Bệnh mắc kèm ở bệnh nhân viêm phổi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân còn mắc các bệnh kèm
theo, số trẻ em có bệnh mắc kèm theo viêm phổi là 27 trẻ (chiếm 14,8%).
Trong đó, bệnh chủ yếu là tiêu chảy (33,3%); suy dinh dưỡng (11,2%).
Trẻ nhỏ thường dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt khi sức đề
kháng giảm nên ngoài viêm phổi trẻ
còn bị
các bệnh khác như
viêm loét
miệng, tràn dịch màng phổi, lỵ trực tràng [30].
Do đó cần chú ý đến chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ, chăm sóc trẻ như chia nhỏ bữa ăn để tránh nôn trớ nhiều làm trẻ mệt. Tuy nhiên rối loạn tiêu hoá cũng có thể liên quan đến việc sử dụng kháng sinh trước và sau khi vào viện. Để điều trị tốt bệnh viêm phổi, cần phải kết hợp nâng cao thể trạng và điều trị các bệnh mắc kèm.
5.1.4. Xét nghiệm tìm khuẩn gây bệnh.
Việc xét nghiệm tìm VK gây bệnh là cần thiết để lựa chọn kháng sinh phù hợp với từng chủng loại VK trên bệnh nhân [35]. Tuy nhiên, do điều kiện
của bệnh viện, chưa đảm bảo về nhân lực và trang thiết bị…nên việc xét
nghiệm tìm vi khuẩn chỉ được thực hiện khi nghi ngờ bệnh nhân bị tràn dịch màng phổi hay có triệu chứng VPN hay theo yêu cầu của người nhà BN. Do đó, chỉ có 2,2% bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu được làm xét nghiệm tìm VK và cho kết quả âm tính. Chỉ định phác đồ của bác sỹ chủ yếu dựa theo kinh nghiệm, khuyến cáo và các khảo sát dịch tễ về vi khuẩn gây bệnh viêm phổi trong nước và trên thế giới.
5.2. Phân tích tình hình sử dụng kháng sinh trong mẫu nghiên cứu
5.2.1. Các nhóm kháng sinh và tỷ lệ sử dụng kháng sinh được sử dụng
Các kháng sinh và nhóm kháng sinh đã được sử dụng tại bệnh viện
gồm 15 loại thuộc 5 nhóm: beta lactam, macrolid, aminoglycosid, phenicol, glycopeptid.
Tỷ lệ các kháng sinh được sử dụng tại khoa Nhi Tổng hợp:
Viêm phổi cộng đồng ở trẻ thường chia thành hai loại: điển hình và không điển hình. Mặc dù các phân loại rất hữu ích trong việc tìm hiểu nguyên nhân gây viêm phổi, tuy nhiên xảy ra sự chồng chéo đáng kể giữa chúng, các biểu hiện lâm sàng của viêm phổi điển hình và không điển hình không đủ
khác biệt trong các quyết định về
điều trị
[34], [42].
Ở nước ta một số vi
khuẩn thường gây viêm phổi
như:
Streptococus pneumoniae, Hemophilus
influenzae, Staphylococus aureus…Ngoài ra, nguyên nhân gây viêm phổi không điển hình thường là Mycoplasma pneumoniae. Do đó, tại khoa Nhi Tổng hợp
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế có 3 nhóm kháng sinh được các
khuyến cáo lựa chọn nhiều hơn là beta lactam (85,3%); macrolid (8,7%) và aminosid (2,7%). Điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu khác.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hiền Lương các nhóm KS được sử dụng nhiều nhất là: cephalosporin chiếm 73,24%; thứ 2 là aminosid (11,97%) [14]. Theo Nguyễn Thị Thanh Xuân, beta lactam cũng được dùng với tỷ lệ lớn nhất (84,5%); tiếp theo là aminosid (13,07%) và macrolid (2,43%) [21]. Nghiên cứu của Trần Thị Anh Thơ, cephalosporin có tần suất sử dụng cao nhất chiếm 65,15%; aminosid được lựa chọn nhiều thứ 2 (17,17%) [17].
Các KS thuộc 5 nhóm này đều nằm trong danh mục thuốc thiết yếu của BYT Việt Nam [8]. Hơn nữa, nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả phù hợp với hướng dẫn điều trị của Hội Lồng ngực Anh (BTS), kháng sinh được lựa chọn ban đầu theo kinh nghiệm đối với trẻ em VP mắc phải tại cộng
đồng khi nghi ngờ do vi khuẩn điển hình là kháng sinh thuộc nhóm beta
lactam: ampicillin hoặc penicillin G với nhiễm trùng nặng thay thế bằng
ceftriaxon hoặc cefotaxim (thêm vancomycin nếu nhiễm MRSA), khi nghi ngờ mắc VP không điển hình thì thay thế bằng kháng sinh thuộc nhóm macrolid: azithromycin, clarithromycin hay erythromycin, khi nghi ngờ VP do trực khuẩn mủ xanh P. aeruginosa thì lựa chọn ưu tiên là 1 kháng sinh cephalosporin thế
hệ 3 hết hợp với gentamycin hoặc tobramycin [26]. Kháng sinh gentamycin được sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi mặc dù không có bệnh nhân VPRN nào có thể là do: aminosid được dùng liều duy nhất trong ngày (tổng
liều trong một ngày được tập trung trong 1 lần tiêm) với các ưu điểm là:
nhanh đạt nồng độ đỉnh trong máu sớm tiêu diệt vi khuẩn gram âm đặc biệt Pseudomonas aureginosae, có hiệu quả lâm sàng rò rệt tương đương với cách dùng nhiều lần một ngày, giảm độc tính lên thận và thính giác, giảm tính kháng thuốc [5], [20], [36].
5.2.2. Đánh giá về tính hợp lý trong lựa chọn phác đồ kháng sinh tại khoa Nhi Tổng hợp tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế so với các phác đồ chuẩn trong điều trị viêm phổi trẻ em
Với tình hình đề kháng kháng sinh đang diễn ra mạnh mẽ thì liệu pháp kháng sinh trên bệnh nhân đóng vai trò rất quan trọng. Do khoa Nhi Tổng hợp tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế chưa ban hành hướng dẫn điều trị riêng, hầu hết các bác sĩ lựa chọn kháng sinh theo kinh nghiệm, dựa vào các yếu tố như tuổi, cân nặng, sức khỏe, mức độ nặng của viêm phổi, tiền sử dùng thuốc và tham khảo các hướng dẫn điều trị. Do đó, để đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng phác đồ KS điều trị cho bệnh nhân VP, chúng tôi căn cứ vào phác đồ điều trị viêm phổi của Bộ Y tế Việt Nam theo quyết định số 708/QĐBYT ngày 02/03/2015 về việc “Hướng dẫn sử dụng kháng sinh điều trị viêm phổi cộng đồng ở trẻ em” [3].
Tỷ lệ các phác đồ ban đầu và thay đổi được dùng trong khoa phù hợp với hướng dẫn của BYT với tỷ lệ lần lượt là 66,5% và 60,5%.
Đối với bệnh nhân bị viêm phổi, khuyến cáo của BTS, IDSA có chung quan điểm với Bộ Y tế Việt Nam trong việc chọn lựa đầu tay penicillin uống để điều trị do ưu điểm thuốc tác dụng tốt trên các cơ quan hô hấp, tiện dụng, rẻ tiền [3], [26], [32]. Trong nghiên cứu của
chúng tôi các BN viêm phổi được sử dụng các penicillin uống, tuy
nhiên các cephalosporin thế
hệ 2, thậm chí thế
hệ 3 được sử
dụng
nhiều hơn trong phác đồ ban đầu và thay đổi. Như vậy, có phần không đúng với các khuyến cáo. Điều này có thể do BN có tiền sử sử dụng các loại KS khi điều trị các bệnh khác hoặc ngay cả viêm phổi trước đó nên dễ xảy ra hiện tượng kháng thuốc và hiện nay tình trạng kháng
thuốc đã trở
nên phổ
biến. Theo nghiên cứu của ANSORP (tổ
chức
châu Á nghiên cứu tác nhân vi khuẩn kháng thuốc) về
tỷ lệ
kháng
kháng sinh của phế cầu tại các nước châu Á trong đó có Việt Nam giai đoạn 20082009, trong các mẫu phân lập không phải từ dịch màng não,
tỷ lệ
không nhạy cảm với penicillin của phế
cầu là 4,6% và tỷ lệ
kháng penicillin là rất thấp. Ngược lại, tỷ lệ kháng erythromycin trong
khu vực rất cao (72,7%); tỷ
lệ cao nhất là ở
các nước Trung Quốc
(96,4%); Đài Loan (84,9%) và Việt Nam (80,7%).
Tỷ lệ
kháng
cefuroxim là 53,9% trong đó ở Việt Nam là 70,0%. Hiện tượng đa
kháng ở Việt Nam (75,5%) chỉ đứng sau Trung Quốc (83,3%). Kết quả
này cho thấy tỷ lệ kháng beta lactam có xu hướng giảm trong khi
kháng sinh macrolid lại tăng lên nên các bác sĩ chỉ định các các kháng sinh mạnh là cephalosporin tiêm [13], [36].
Đối với bệnh nhân viêm phổi nặng, đa số phác đồ là ceftriaxon đơn, sự
lựa chọn này phù hợp với phác đồ của BYT và WHO [3], [48], [49].
Ceftriaxon là KS cephalosporin thế hệ 3 có phổ hoạt động rộng, nhạy cảm trên các VK đã kháng penicillin như H. influenzae, S. aureus, S. pneumoniae… Đây là những nguyên nhân hàng đầu gây viêm phổi ở trẻ em. Có 10 trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm khuẩn VP không điển hình nên chuyển sang dùng macrolid theo khuyến cáo.