- Mức chuẩn cận nghèo (cập nhật CPI): so sanh thu nhập hộ gia đình với mức 600 ngàn đồng khu vực nông thôn và 750 ngàn đồng khu vực thành thị.
Nghiên cứu “người nghèo và thích ứng với biến đổi khí hậu” tại vùng ven biển của Ninh Thuận và Hà Tĩnh cho thấy: sinh kế của người dân vùng này tập trung vào đánh bắt thủy sản, các hiện tượng khí hậu cực đoan tác động tới đời sống của họ chủ yếu là hạn hán ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước sinh hoạt và đối tượng bị tổn thương chủ yếu là phụ nữ và trẻ nhỏ (UNDP, 2008).
Dự án: "Giảm thiểu và Thích ứng của ngành Trồng trọt đối với Biến đổi khí hậu ở Việt Nam" do Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện tháng 1 năm 2010 đã nghiên cứu và cho rằng một trong những điểm yếu là cộng đồng nông thôn những người sống phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, do vậy việc tập trung đánh giá tác động của BĐKH đến sinh kế và tái thiết mối liên quan giữa đói nghèo, sinh kế và môi trường. Tuy nhiên, tập trung vào cộng đồng không cũng chưa đủ. Kết quả phỏng vấn nông dân và cán bộ địa phương đã cho thấy hầu như cộng đồng chưa có vai trò gì trong việc ứng phó với BĐKH (ngoại trừ một số trường hợp khẩn cấp).
Tổ chức Oxfam tại Việt Nam và Viện Sau đại học về nghiên cứu môi trường, Trường Đại học Kyoto, Nhật Bản đã tiến hành nghiên cứu những lựa chọn để giải quyết rủi ro do hạn hán ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này tập trung vào phân tích ảnh hưởng của tần suất hạn hán tới sinh kế của cộng đồng tại các khu vực thường xuyên bị hán hán của tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng đề cập tới cộng đồng cảm nhận như thế nào với hạn hán và thay đổi khí hậu, chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ làm sao để có thể đối phó với thảm họa từ thiên nhiên, đặc biệt đối với hạn hán.(Oxfam Việt Nam, 2010).
Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng
Tổ chức CARE International nghiên cứu sự thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng trong đó đề cập tới tác động của BĐKH tới an ninh lương thực và thu nhập của người dân, nước sinh hoạt, sức khỏe và di dân. Nghiên cứu cho thấy người nghèo và người dân vùng ven biển bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nghiên cứu ở Thanh Hóa cho thấy rằng các hiện tượng thời tiết cực đoan: hạn hán, ngập lụt, thay đổi mùa đã tác động tới sản xuất nông nghiệp làm cho thiếu đói, gia cầm, khai thác thủy sản bị ảnh hưởng (Morten Fauerby Thomsen, 2010, CARE International).
Từ năm 2002, tổ chức Oxfam Hồng Kông và tổ chức Oxfam Anh đã xây dựng một chương trình phối hợp lồng ghép giảm nhẹ rủi ro thiên tai trong sinh kế bền vững. Qua kết quả thu được cho thấy thời tiết có những thay đổi và diễn biến khó lường (số lượng bão lớn tăng, hạn hán kéo dài, lũ lụt thất thường, v.v) đe dọa tính mạng và thành quả của người nghèo và người dân tộc miền núi sinh sống trong những vùng Oxfam hỗ trợ, tổ chức này đã xây dựng chiến lược giúp hộ nghèo và phụ nữ nghèo trong vùng dự án từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển nông thôn (CSRD) (Lâm Thị Thu Sửu và nnk, 2010) nghiên cứu thích ứng biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng tại khu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Huế tập trung vào:
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng xã Tây Phong huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình - 1
- Nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng xã Tây Phong huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình - 2
- Thời Gian, Địa Điểm, Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Phương Pháp/các Công Cụ Phân Tích Trong Nghiên Cứu
- Đồ Thị Biểu Diễn Lượng Mưa Trung Bình Hàng Năm
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
- Tìm hiểu những biện pháp thích ứng mà người dân địa phương và nhiều tổ chức đã thực hiện;
- Xác định các biện pháp thích ứng chính liên quan đến quản lý nguồn nước;
- Lựa chọn những giải pháp thích ứng hiệu quả cụ thể để hỗ trợ trực tiếp và làm đầu vào cho các kế hoạch địa phương.
Hiện nay, có khoảng 70 tổ chức tại Việt Nam tham gia nghiên cứu và thực thiện liên quan tới “tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu” tập chung vào các vấn đề như: BĐKH và Nông nghiệp bền vững, Biển và Ven biển với
BĐKH, Sức khỏe cộng đồng và BĐKH, Tài nguyên môi trường và BĐKH, Nghiên cứu và vận động chính sách với BĐKH. Tuy nhiên nghiên cứu các hiện tượng thời tiết cực đoan và sinh kế dựa vào nông nghiệp của các hộ nghèo khu vực miền núi được đề cập rất ít chính vì vậy nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu tập trung vào các hiện tượng thời tiết cực đoan và sinh kế dựa vào nông nghiệp của các hộ nghèo miền núi sẽ bổ sung thêm các nghiên cứu nói trên.
1.4. Các nghiên cứu tại khu vực nghiên cứu.
Theo Viện khí tượng thủy văn và môi trường, để đánh giá xu thế diễn biến khí hậu ở Hòa Bình, đã sử dụng chuỗi số liệu 38 năm (1973 - 2010) của 5 trạm Chi Nê, Hòa Bình, Kim Bôi, Lạc Sơn và Mai Châu.
Nhiệt độ
Đối với nhiệt độ, xu thế diễn biến được xác định trên cơ sở chuỗi số liệu trung bình nhiều năm (°C) và xu thế diễn biến lượng mưa được xác định thông qua chuỗi số liệu tổng lượng mưa năm (mm).
Trong 38 năm qua, nhiệt độ trung bình năm ở Hòa Bình tăng khoảng 1,1°C. Trong đó, nhiệt độ trung bình tháng I (tháng đặc trưng cho mùa đông) ở trạm Chi Nê tăng khoảng 1,6°C, còn nhiệt độ tháng VII (tháng đặc trưng cho mùa hè) tăng khoảng 0,4°C; trạm Hòa Bình có nhiệt độ trung bình tháng I tăng khoảng 2,0°C và tháng VII tăng là 0,5°C, tượng tự với trạm Kim Bôi và Lạc Sơn nhiệt độ tháng I và tháng VI tăng lần lượt là 1,7°C, 1,4°C, 0,6°C và 0,5°C. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Lượng mưa
Lượng mưa mùa mưa ở cả 4 trạm Chi Nê, Hòa Bình, Kim Bôi và Lạc Sơn đều có xu hướng giảm. Trong đó, 2 trạm Chi Nê và Kim Bôi có xu thế giảm mạnh, trạm Hòa Bình và Lạc Sơn có xu hướng giảm nhẹ hơn
Các hiện tượng thời tiết cực đoan
Trong những năm gần đây, thiệt hại về người và của do ảnh hưởng của những điều kiện tự nhiên gia tăng.
Bão và ATNĐ: theo thống kê từ năm 2001 đến 2010 đã có 19 cơn bão và 3 ATNĐ ảnh hưởng đến địa bàn tỉnh Hòa Bình, gây ra những đợt mưa to trên diện rộng, vừa góp phần chấm dứt tình trạng hạn hán kéo dài nhưng cũng gây ra nhiều thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Lũ lụt: Từ năm 2001 đến năm 2010, do ảnh hưởng của các cơn bão như : Bão số 3, số 5 (năm 2003); ATNĐ , bão số 2, số 4 (năm 2004); bão số 3, số 6, số 7 (năm 2005); bão số 5, số 6 và 01 đợt ATNĐ (do ảnh hưởng gián tiếp của cơn bão số 3) (năm 2006); bão số 1, số 5 và 02 đợt ATNĐ (một đợt do ảnh hưởng của cơn bão số 5) (năm 2007); bão số 4 và bão số 6 (năm 2008); bão số 4 và số 7 (năm 2009); bão số 1, số 2, số 3 (năm 2010) đã gây ra các trận mưa to đến rất to và kéo dài nhiều ngày, những nơi có lượng mưa lớn nhất như các huyện: Đà Bắc, Yên Thuỷ, Lạc Thuỷ, Kim Bôi. Tân Lạc và Thành phố Hoà Bình. Một số nơi có tổng lượng mưa ngày lớn lên tới 350 mm như huyện Đà Bắc và huyện Yên Thuỷ. Năm 2005 cơn bão số 6, số 7 và năm 2007 (ATNĐ do ảnh hưởng của cơn bão số 5) đã gây mưa to trên toàn tỉnh , lượng mưa bình quân từ 100 đến 250 mm đã gây ra lũ quét và làm ngập úng tại nhiều xã trong tỉnh. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Hạn hán: theo tài liệu khí tượng thủy văn từ 30 – 40 năm trở lại đây, hạn hán xảy ra ở Hòa Bình ít khắc nghiệt và ít nghiêm trọng, phổ biến hàng năm có hạn nhẹ và vài năm có hạn vừa cục bộ ở một số nơi. Ít khi có hạn xảy ra 2 năm liên tiếp,. từ năm 1980 đến nay đã xảy ra 5 đợt hạn đáng kể là các đợt hạn từ cuối năm 1982 đến đầu năm 1983; cuối năm 1986 đến đầu năm 1987; cuối năm 1991 đến đầu năm 1992; cuối năm 1992 đến đầu năm 1993; cuối năm 1997 đến đầu năm 1998. Phương pháp xác định hệ số hạn đã được áp dụng để tính toán cho đợt hạn cuối năm 1992 đầu năm 1993
. Đây là năm xảy ra hạn nặng trên diện rộng vào vụ đông xuân 1992/1993 với ảnh
hưởng lớn của hiện tượng El-Ninô hoạt động mạnh từ tháng II/1993 đến tháng VIII/1993 làm cho nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế và sự phát triển của xã hội. Để có thể đưa ra các biện pháp có hiệu quả phòng chống và giảm thiểu tác hạn do hạn hán gây ra trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ứng với các mức độ ảnh hưởng khác nhau, tỉnh Hòa Bình đã được phân vùng hạn hán thông qua việc tính toán hệ số hạn (Khạn ) dựa trên việc tính toán hệ số khô (Kkhô) và hệ số cạn nước sông (Kcạn). Trong trường hợp vừa khô vừa cạn mới có khả năng sinh hạn. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Tình hình thiên tai lũ lụt trên địa bàn tỉnh
Bão và áp thấp nhiệt đới: Theo thống kê của ban chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Hòa Bình trong những năm gần đây, Hòa Bình chịu ảnh hưởng từ 2 đến 3 cơn bão mỗi năm. Mưa bão kèm theo gió mạnh thường gây thiệt hại đáng kể đến sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Mưa, lũ, bão trong xảy ra trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh diễn biến bất thường và khó lường.
Lũ quét và sạt lở núi, bờ sông: Ở tỉnh Hòa Bình lũ quét xảy ra ở một số địa phương. Thống kê lũ quét đã xảy ra ở khu vực Lâm Sơn, Tân Vinh của huyện Lương Sơn, Mai Sơn, huyện Mai Châu (năm 2001); các xã Suối Nánh, Mường Chiền, Tân Minh, huyện Đà Bắc (năm 2002); huyện Tân Lạc, Yên Thủy (năm 2007); thành phố Hoà Bình, huyện Đà Bắc, Mai Châu, Lạc Sơn (2007)...Lũ lụt hàng năm cũng gây ra hiện tượng sạt lở bờ sông, mưa lớn gây ra hiện tượng sạt lở đất ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Hạn hán: hạn hán cũng xảy ra thường xuyên trên địa bàn tỉnh. Các năm 2003, 2004, 2005, 2007 hạn hán xảy ra gay gắt... Mực nước các hồ chứa bị cạn kiệt, nắng nóng kéo dài từ tháng 9 đến hết tháng 5 năm sau làm cho tình hình khô hạn và thiếu nước càng xảy ra gay gắt hơn. Một số nơi phải tháo cống xả đầy hồ chứa để tận dụng nước tưới chống hạn cứu lúa. Lốc xoáy, giông: Giông lốc xoáy xảy ra ngày một nhiều, một số nơi xảy ra 2 đến
3 trận trong năm (Kim Bôi, Lương Sơn, Yên Thủy, Mai Châu). Năm 2007 giông, lốc xoáy xuất hiện sớm từ đầu tháng 4. Năm 2008 lốc, mưa đá xuất hiện từ cuối tháng 3. Năm 2009, trên địa bàn tỉnh cũng xuất hiện 3 đợt lốc xoáy. Năm 2010, 7 đợt lốc xoáy xuất hiện trong các tháng 4, 5, 6, 7 tại 19 xã, 2 thị trấn trên địa bàn 6 huyện Kỳ Sơn, Đà Bắc, Yên Thủy, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Mai Châu. Rét đậm, rét hại: Rét đậm, rét hại trên địa bàn tỉnh không xuất hiện thường xuyên. Năm 2008 có xuất hiện hiện tượng rét đậm, rét hại kéo dài từ ngày 14/1 đến 25/2. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng của thiên tai đến nông nghiệp
Mưa lũ trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây diễn biến bất thường. Mùa mưa xuất hiện sớm kết thúc muộn ảnh hưởng đến thời vụ sản xuất cây trồng. Ví dụ năm 2009 và 2010 xuất hiện các trận mưa rào lớn bất thường vào tháng 4, là tháng cuối mùa khô hầu hết đất đồi trong tình trạng khô. Nếu mưa với lượng nhỏ và cường độ nhỏ thì sẽ có lợi cho cây trồng. Nếu mưa lớn các vật liệu hữu cơ như tàn dư cây trồng của vụ trước còn nhiều. Khi gặp mưa lớn tập trung thì một lượng lớn hữu cơ bị xói và vận chuyển xuống các ao hồ nuôi cá. Sang tháng 5 nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng tăng mạnh, các quá trình phân hủy hữu cơ xảy ra nhanh chóng. Nếu các hợp chất hữu cơ này phân hủy trong điều kiện ngập nước sẽ lấy hết ô xy trong nước và thải ra nhiều CO2, đặc biệt là CH4 gây ngộ độc và có thể làm chết cá hang loạt. Nếu mưa lớn xảy ra muộn thì sẽ ảnh hưởng rất bất lợi đến các loại cây màu trên đất đồi và lũ quét ảnh hưởng đến lúa hoặc cây vụ động ở dước các vùng đồng bằng hoặc đất thung lũng. Hạn hán kéo dài gây thiếu nước nghiêm trọng cho nông nghiệp. Trong giai đoạn 2001–2005, 13000 ha lúa bị hạn, trên 1000 ha bị mất trắng. Năm 2007, hạn hạn cũng xảy ra nhưng do tích được nước sớm nên lượng nước tưới vẫn đủ đảm bảo cung cấp cho nông nghiệp.
Năm 2007 tổng diện tích lúa bị ngập, hư hại là 8754 ha, trong đó có nhiều diện tích bị vùi lấp gây thiệt hại nặng; tổng diện tích màu bị thiệt hại là 6165 ha trong đó trên 1300
ha mất hoàn toàn; tổng diện tích cây công nghiệp bị hư hại là 217 ha, số cây bị chết do ngập úng là 78 ha; tổng diện tích cây ăn quả bị thiệt hại là 1043 ha, tổng diện tích.
Năm 2008, rét đậm rét hại làm 3000 ha lúa đã cấy bị chết; trên 12000 trâu, bò, bê nghé ở một số địa phương bị chết. Mưa lũ gây ngập, cuốn trôi, hư hại 325 ha lúa, 4455 ha hoa màu, làm hỏng 12 tấn thóc, ngô.; đàn gia súc bị chết 146 con; đàn gia cầm bị chết 4702 con.
Năm 2009, diện tích lúa bị ngập, cuốn trôi, hư hại là 325 ha; hoa màu bị ngập úng, vùi lấp và hư hỏng: 1089 ha.
Năm 2010, diện tích lúa bị ngập là 2980 ha, mất trắng 280 ha; diện tích hoa màu bị ngập là 1035 ha; 5 tấn ngô bị cuốn trôi mất trắng 244ha; bị nước cuốn trôi 140 con gà, chết 4 con dê. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản
Lũ lụt làm ô nhiễm khiến cho cá chết, một số vùng nuôi thủy hải sản có địa hình thấp và yếu khi có lũ có thể bị vỡ bờ làm thất thoát nguồn thủy hải sản. Hàng năm, lũ lụt gây ngập tràn bờ vỡ bờ hàng trăm ao, hồ nuôi tôm, cá và các loại thủy sản khác. Năm 2008, thủy sản bị thiệt hại nặng khi 632 ha ao bị ngập, thiệt hại 343 tấn thủy sản.
Hạn hán làm nguồn nước cung cấp cho các khu vực nuôi thủy sản và cá trở nên thiếu hụt dẫn tới ảnh hưởng tới sự phát triển của các loại thủy sản, đòi hỏi phải quy hoạch xây dựng các hồ chứa để tiện cho việc lấy nước. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng đến con người, cơ sở hạ tầng, năng lượng và giao thông
Ảnh đến con người: Các loại hình thiên tai như bão lũ, lốc xoáy, sạt lở đất đá đều có tính chất nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mạng con người. Ước tính từ năm 2001 đến năm 2010, thống kê có 32 người chết, 30 người bị thương do thiên tai. Đặc biệt trong năm 2007, có tới 17 người chết, 1 người mất tích do thiên tai.
Ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng dân sinh, giáo dục, công nghiệp, thủy lợi: Thiên tai hàng năm làm hư hại, xuống cấp hàng trăm nhà dân, trường học, trụ sở trạm xá trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Mưa lớn có thể gây ra hiện tượng sụt lở đất đá; sụt lở bờ sông khiến cho các công trình nhà cửa gần các khu vực sụt lở bị vùi lấp hoặc cuốn trôi. Gió mạnh trong mưa bão hoặc lốc xoáy khiến các công trình nhà cửa có thể bị đổ, tốc mái. Mưa lũ còn có thể gây thiệt hại cho các công trình thủy lợi, công trình cấp nước như đê điều, hồ chứa, đập dâng, giếng nước, kênh mương… Mưa lũ cũng gây những thiệt hại đáng kể đến các công trình phục vụ dịch vụ, công nghiệp như chợ, nhà máy xí nghiệp, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và thương mại dịch vụ.
Ảnh hưởng đến năng lượng: Sự thay đổi trong tính chất của mùa bão có ảnh hưởng trực tiếp đến ngành năng lượng, ảnh hưởng đến hệ thống truyền tải và phân phối điện. Mưa bão còn làm gãy đổ nhiều cột điện, đe dọa các trạm điện biến áp, cột điện cao thế. Hạn hán làm giảm khả năng tích trữ nước của hồ thủy điện; mưa bão thất thường gây khó khăn trong việc điều hành các công trình thủy điện làm giảm hiệu quả sản xuất.
Ảnh hưởng đến giao thông vận tải: Mưa lũ kéo dài gây khó khăn cho giao thông. Sạt lở đất phá hủy đường xá, gây ách tắc giao thông. Từ năm 2001 đến 2005, sạt lở làm hư hại 80km đường ô tô, sạt lở trên 40000 m3 đất đá. Năm 2007, mưa lũ phá hỏng trên 80 km đường, làm bong tróc 13000 m2 mặt đường. Năm 2008, 13 cầu giao thông bị hư hại. Năm 2009, chiều dài sạt lở, bong tróc gần 8200 m, làm cuốn trôi 1 cầu tạm, sập 3 cống qua đường. Năm 2010, làm hư hại nhiều đoạn đường, làm đứt 1 cầu treo, trôi và chìm 50 m cầu phao, 1 cầu giao thông bị xói lở. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng đến rừng và quy hoạch phát triển hệ sinh thái, đa dạng sinh học
Rừng mang lại nhiều nguồn lợi cho con người. Ngoài khai thác lâm sản, rừng là lá chắn xanh bảo vệ con người khỏi thiên tai. Hệ sinh thái rừng phát triển đa dạng và nguồn