được hay kết quả hoạt động là mục tiêu cuối cùng định hướng toàn bộ hoạt động của DN. Mọi thành viên được tham gia vào quá trình thực hiện nhiệm vụ. Điều này, giúp DN thích nghi cao với các tình huống bất ngờ từ thị trường, bởi cơ chế kiểm soát, hoạt động không quá chặt chẽ và bỏ ngỏ. Do đó, DN có thể gặp rất nhiều rủi ro đối với môi trường bên trong và bên ngoài DN, đòi hỏi DN cần có hoạt động kiểm soát nhiều hơn. DN cần có thành phần KSNB vững mạnh với môi trường và hoạt động kiểm soát tốt đối với cấu trúc có mức độ tập trung hóa cao.
5.2.6. Khuyến nghị về nâng cao tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ
Thành phần KSNB đóng vai trò là biến độc lập tiềm ẩn ảnh hưởng trực tiếp thuận chiều đến tính hữu hiệu KSNB. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy thành phần KSNB có mức độ ảnh hưởng đến tính hữu hiệu KSNB với trọng số hồi quy đã chuẩn hóa: 0,343. Thành phần KSNB ở đây được đặt trong xem xét sự phù hợp với các đặc tính ngẫu nhiên của DN như: công nghệ thông tin, chiến lược kinh doanh, văn hóa tổ chức, cấu trúc tổ chức, nhận thức sự không chắc chắn của môi trường DN đến nâng cao tính hữu hiệu KSNB của DN. Vậy, thành phần KSNB của các DNBHPNT cần đem lại lòng tin cho nhà quản trị, hoạt động một cách linh hoạt phù hợp với môi trường bên trong, bên ngoài đặt trong bối cảnh đặc điểm DN để nâng cao tính hữu hiệu KSNB. Ngoài ra, khi xem xét thành phần KSNB cũng cần xem xét các yếu tố cấu thành có ảnh hưởng theo mức độ tác động như: Môi trường kiểm soát, hoạt động kiểm soát, đánh giá rủi ro, giám sát và thông tin truyền thông theo trọng số hồi quy: 0,539; 0,312; 0,284; 0,272; 0,235.
Môi trường kiểm soát:
Kinh doanh BH là bán niềm tin cho khách hàng khi có các tổn thất ở tương lại, do đó Ban lãnh đạo DNHBPNT nhận thức đúng vai trò KSNB để có đầu tư thỏa đáng nhằm phát triển KSNB, tránh buông lỏng giám sát gây rủi ro và tổn thất đến DN. Tăng cường tính liêm chính và giá trị đạo đức từ cấp trên xuống cấp dưới để giảm động cơ và cám dỗ dẫn đến trục lợi BH. DN cần thận trọng khi mở các chi nhánh đại lý cần xuất phát từ nhu cầu thị trường và phải có kế hoạch tỉ mỉ như: hoàn thiện quy chế quy định đặc biệt tài chính, xây dựng quy chế nội dung kiểm tra chéo ở các cấp/bộ phận/đơn vị thành viên cùng tham gia thực hiện, phổ biến quy chế quy định trên toàn hệ thống, rà soát các đơn vị/chi nhánh đại lý hay cá nhân có kết quả kinh doanh xấu hoặc vi phạm cần kiên quyết loại bỏ khỏi hệ thống. DN có kế hoạch đào tạo lãnh đạo các cấp và nhân viên không chỉ giỏi về nghiệp vụ BH mà cả kiến thức quản trị rủi ro và KSNB. DN cũng cần thiết lập cơ cấu bộ máy đảm bảo tính độc lập hoạt động giám sát và điều hành tránh quá chú trọng đến mải mê kinh doanh BH bỏ qua nhiệm vụ kiểm soát dẫn đến tích tụ gây rủi ro hậu quả khó khắc phục.
Hoạt động kiểm soát:
Qua nghiên cứu nhận thấy rằng hoạt động kiểm soát cần tập trung giải pháp ở một số hoạt động trọng tâm khai thác, quản lý đại lý và hoạt động giám định bồi thường. Đối với hoạt động khai thác: Tăng cường áp dụng CNTT tiến tới tự động hóa các chốt kiểm soát nhằm quản lý xuyên suốt từ khai thác đến bồi thường để đảm bảo thu nhận thông tin và phản ứng kịp thời ở các bộ phận/đơn vị; quản lý chặt chẽ các điều khoản quy chế tài chính, hoa hồng và việc mở rộng các điều khoản hợp đồng ở các đại lý cần phải được phản hồi ở các bộ phận và hội sở; kiên quyết xử lý nghiêm các cá nhân bộ phận, đại lý và đơn vị thanh viên kém hiệu quả chạy theo doanh số buông lỏng kiểm soát gây hậu quả nghiêm trọng cho DN; Đối với hoạt động đại lý: Rà soát các hoạt động đại lý như yêu cầu các đại lý phải có chứng chỉ, có hợp đồng với DN. Tăng cường quản lý các đại lý như quy trách nhiệm cao hơn các đơn vị có đại lý, phạt nặng các đại lý vi phạm. Xây dựng quy chế hoạt động và chấn chỉnh triệt để các đại lý đảm bảo tính chuyên nghiệp từ đó ngăn ngừa các sai phạm, rủi ro BH, rủi ro pháp lý, rủi ro gian lận và rủi ro uy tín phát sinh; Đối với hoạt động bồi thường: Tăng cường thông tin khách hàng và phối hợp với cơ sở dữ liệu của các DNBHPNT khác để tránh trục lợi BH. Thiết lập cảnh báo rủi ro tích hợp tự động trong các quy trình nghiệp vụ BH để hỗ trợ tác nghiệp. Cần có cơ chế phối hợp giữa giám định độc lập và DN khi có các hợp đồng thuê ngoài. Hình thành trung tâm bồi thường tập trung độc lập tránh vừa khai thác vừa bồi thường, hạn chế gian lận của nhân viên BH.
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh Hưởng Các Nhân Tố Đến Thành Phần Kiểm Soát Nội Bộ, Và Tính Hữu Hiệu Kiểm Soát Nội Bộ
- Ảnh Hưởng Công Nghệ Thông Tin Đến Thành Phần Kiểm Soát Nội Bộ
- Sự Khác Biệt Của Quy Mô Vốn Điều Lệ, Loại Hình Hoạt Động, Thời Gian Hoạt Động Đến Tính Hữu Hiệu Của Kiểm Soát Nội Bộ
- Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam - 20
- Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam - 21
- Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam - 22
Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.
Đánh giá rủi ro:
Thực tế, DNBHPNT quá chạy theo doanh thu, mở rộng thị trường và tiềm lực tài chính còn hạn chế do đó chưa đầu tư đồng bộ vào hệ thống đánh giá rủi ro. Trong thời gian tới cần hướng đến một số giải pháp như: xây dựng chính sách rủi ro để định hướng cho các bộ phận/đơn vị biết được mục tiêu rủi ro; xác định rủi ro cơ bản, nguy cơ cao mà DN phải đo lường từ đó đưa ra đánh giá các rủi ro này. DNBHPNT có các rủi ro chính: rủi ro BH, rủi ro tài chính, rủi ro hoạt động; Cần thu hút mọi thành viên tham gia vào quy trình đánh giá rủi ro. DN có thể áp dụng mô hình 3 tuyến phòng vệ như: Các đơn vị kinh doanh/bộ phận là nơi tiếp nhận rủi ro và quản lý xây dựng các chốt kiểm soát hàng ngày; Bộ phận quản lý rủi ro thiết kế và triển khai khung quản lý rủi ro và giám sát việc áp dụng; Bộ phận KTNB đảm bảo độc lập rằng khung quản lý rủi ro được tuân thủ; HĐQT và Giám đốc giám sát rủi ro và hoạt động kiểm soát của DN, thiết lập khẩu vị rủi ro.
Giám sát:
Giám sát là chức năng rất quan trọng để giúp DNBHPNT nhận biết tính hữu hiệu của KSNB. Thông qua giám sát để biết chất lượng KSNB theo thời gian, chức năng này bao gồm giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ. Giám sát thường xuyên được thực hiện trực tiếp ở đơn vị, bộ phận kinh doanh BH nhằm xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo theo dõi các rủi ro phát sinh về nghiệp vụ và các quy trình vận hành khác. Giám sát định kỳ được phân giao cho bộ phận chuyên trách như KTNB nhằm kiểm tra, kiểm toán độc lập để báo cáo HĐQT và giám đốc về tính hữu hiệu KSNB theo quy định pháp luật và quy định DN theo từng thời kỳ. Để tăng cường hoạt động giám sát, DN cần hoàn thiện quy trình thủ tục kiểm tra KSNB bằng bổ sung hướng dẫn tập trung vào những mảng hoạt động chính, phân loại chất lượng đối tượng kiểm tra, xem xét các khuyến nghị của công tác kiểm tra, giám sát có được thực hiện và làm thay đổi chất lượng trong hoạt động kinh doanh. Xây dựng bộ cẩm nang quy trình chuẩn để hướng dẫn thực hiện công việc cho nhân viên kiểm tra có kinh nghiệm và chưa có kinh nghiệm. Bổ sung nhân lực cả số lượng và chất lượng cho công tác kiểm tra, kiểm soát của bộ máy các đơn vị trong điều kiện các DNBHPNT gia tăng mở rộng các chi nhánh/công ty thành viên.
Thông tin và truyền thông:
Kinh doanh BH với sự đa dạng các sản phẩm/dịch vụ cho các khách hàng đơn lẻ và khách hàng lớn, các hoạt động đầu tư tài chính khá phức tạp, với sự phân cấp nhiều chi nhánh/đơn vị thành viên, cũng như chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường trong nước và quốc tế. DNBHPNT cần minh bạch hóa thông tin cho toàn hệ thống đơn vị và các đối tượng bên ngoài. Bên cạnh, truyền đạt thông tin và nhận thông tin phản hồi nhằm nâng cao hiệu quả và uy tín DN: Xây dựng kênh thông tin đảm bảo mọi nhân viên báo cáo sự không phù hợp hoặc đáng nghi ngờ. Kênh này rất quan trọng trong nội bộ DN, vì nhà quản trị có thể thu nhận được thông tin không tuân thủ quy trình nghiệp vụ, vượt cấp trong phê duyệt, thông đồng khách hàng trục lợi BH hay thông tin tính đúng đắn của các quyết định của nhà quản trị. Qua đó có những điều chỉnh kịp thời tăng sự đồng thuận, tin tưởng nhân viên, tạo môi trường tốt cho hoạt động đánh giá, hoạt động kiểm soát, giám sát trong DNBHPNT; Tăng cường cung cấp thông tin về KSNB, quản trị rủi ro, KTNB ở các báo thường niên ngoài các BCTC công bố. Qua đó, giúp cổ đông, các nhà đầu tư có đánh xác thực về hoạt động kinh doanh, đồng thời là động lực để DNBHPNT cải tiến và hoàn thành thiện KSNB được hữu hiệu.
5.2.7. Khuyến nghị về quy mô vốn điều lệ, thời gian hoạt động và hình thức sở hữu
(i) Kết quả phân tích chỉ ra rằng quy mô có mối quan hệ tương quan với tính hữu hiệu KSNB và giá trị trung bình hữu hiệu KSNB cao ở nhóm quy mô lớn. Do đó, gợi ý nhà quản trị cần hết sức lưu tâm đến xây dựng các mục tiêu KSNB phù hợp quy mô vốn mà vẫn có thể tăng cường được tính hữu hiệu KSNB. Đồng thời, nhà quản trị cần tận dụng vốn, năng lực khoa học công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm quản trị của mình để thiết kế xây dựng KSNB vững mạnh đem lại tính hữu KSNB tốt hơn.
(ii) Kết quả phân tích chỉ ra rằng hình thức sở hữu quan hệ tương quan với tính hữu hiệu KSNB và giá trị trung bình hữu hiệu KSNB cao ở nhóm loại hình DN có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, gợi ý nhà quản trị nhận thức rõ loại hình sở hữu của mình đặc biệt đối với loại hình sở hữu công ty TNHH và loại hình sở hữu khác khác để đưa mục tiêu KSNB hợp lý phù hợp trình độ và nguồn lực hạn chế của mình từ đó tăng cường tính hữu hiệu KSNB. Bên cạnh đó, nhà quản trị cũng nhận thức rõ các loại hình công ty có vốn đầu tư nước ngoài và công ty cổ phần cần tận dụng trình độ quản trị hiện đại và tính chuyên nghiệp cao để xác lập các mục tiêu KSNB sao cho hợp lý để tăng cường tính hữu KSNB.
(iii) Kết quả phân tích chỉ ra rằng thời gian hoạt động của DN quan hệ tương quan với tính hữu hiệu KSNB và giá trị trung bình hữu hiệu KSNB cao ở nhóm thời gian hoạt động lâu năm. Điều này gợi mở cho các nhà quản trị cần nhận thức rõ và tận dụng triệt để kinh nghiệm và kiến thức tích lũy nhiều năm để xác định mục tiêu KSNB hợp lý với thời gian hoạt động nhằm tăng cường tính hữu hiệu KSNB. Bên cạnh đó, nhà quản trị đối với các DN có thời gian hoạt động tầm trung và ngắn cần xác định rõ sự hạn chế kinh nghiệm và kiến thức để đưa ra mục tiêu kiểm soát hợp lý để từ đó có biện pháp tăng cường tính hữu hiệu KSNB.
5.3. Khuyến nghị Cơ quan nhà nước và Hiệp hội nghề nghiệp
5.3.1. Khuyến nghị với Bộ Tài chính và Cục giám sát bảo hiểm
Thứ nhất, hoàn thiện bổ sung và sửa đổi Luật Kinh doanh BH số 24/2000/QH10. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể là cơ sở pháp lý để xây dựng khung khổ pháp lý vững chắc, minh bạch cho hoạt động kinh doanh BH, song Luật Kinh doanh BH đã được ban hành cách đây 20 năm, trong điều kiện quy mô thị trường còn nhỏ, các sản phẩm, kênh phân phối chưa đa dạng, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao. Việc sửa đổi Luật kinh doanh BH sẽ đáp ứng yêu cầu về sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật có liên quan và yêu cầu mới phát sinh trong thực tiễn, khắc phục những
bất cập của cơ chế chính sách và sự tồn tại của thị trường, để có hệ thống cơ chế, chính sách về kinh doanh BH đầy đủ, minh bạch, bình đẳng, bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ cam kết quốc tế của Việt Nam và hướng theo các chuẩn mực quốc tế về quản lý, giám sát BH, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội. Cùng với đó là việc thay đổi phương thức quản lý thì hoạt động KSNB, KTNB và quản trị rủi ro cũng cần thay đổi và có quy định cụ thể nhằm tương thích với phương thức mới này. Luật Kinh doanh BH hiện hành thiếu khung pháp lý đối với các yêu cầu về KSNB, KTNB, kiểm toán độc lập nhằm đảm bảo giám sát chặt chẽ tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp BH. Trong khi đó các quy định này nằm rải rác tại các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy cần bổ sung quy định và hướng dẫn về KSNB, KTNB tại Luật kinh doanh BH sửa đổi trong thời gian tới và các hướng dẫn chi tiết hơn tại các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, Bộ tài chính sớm hoàn thiện các văn bản dưới luật để hoàn thiện khung pháp lý về kinh doanh BH phi nhân thọ như bổ sung sửa đổi các quy định pháp lý về KSNB, KTNB tại các Nghị định 45/2007/NĐ-CP, Nghị định 46/2007/NĐ-CP, Nghị định 73/2017/NĐ-CP. Nghị định 45/2007/NĐ-CP và hướng dẫn của BTC ở Thông tư 155/2007/TT-BTC, các DNBHPNT thành lập bộ phận thường dưới cái tên Phòng/Ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ, với chức năng thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát nội bộ DN. Trong qui định về tổ chức bộ máy KSNB hiện nay, tại điều 36, Thông tư 124/2012/TTBTC: “Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ phải độc lập với hoạt động điều hành”. DNBH hiện nay có 2 mô hình: Phòng/Ban kiểm soát nội bộ trực thuộc Ban điều hành (là mô hình phổ biến), Phòng /Ban kiểm soát nội bộ trực thuộc HĐQT. Ở mô hình thứ nhất, các DN hiểu rằng mặc dù trực thuộc Ban điều hành nhưng tính độc lập vẫn được tuân thủ; Các cuộc kiểm tra thực hiện đúng theo qui định về qui trình kiểm tra, hoạt động kiểm tra cũng như kết luận kiểm tra không có sự can thiệp hay chỉ đạo làm sai lệch kết quả kiểm tra. Mô hình thứ hai được áp dụng khi DN hiểu hoạt động kiểm tra, KSNB phải tách rời hoạt động điều hành, tác nghiệp của doanh nghiệp, tức là không thuộc sự quản lý của Ban điều hành mà phải thuộc sự chỉ đạo của HĐQT. Thực tế này cho thấy, do sự không rõ ràng trong qui định nên các DN vận dụng khác nhau. Trong khi đó việc ban hành thông tư số 50/2017/TT-BTC thay thế cho cả 3 thông tư gồm TT124/2012/TT-BTC, TT125/2012/TT-BTC và TT194/2014/TT-BTC, qua đó tạo được
sự hợp nhất, đơn giản, rõ ràng về mặt hình thức văn bản. Nhưng trong thông tư cũng không đề cập nhiều đến nội dung KSNB, KTNB mà nhấn mạnh đến việc thành lập và cơ chế hoạt động của Ban kiểm soát khả năng thanh toán. Cùng với đó, Bộ Tài chính cũng ban hành Nghị định 05/2019/NĐ-CP về kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, các cơ quan
nhà nước chưa ban hành các thông tư hướng dẫn, chuẩn mực và các tài liệu công cụ hỗ trợ KSNB, KTNB. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật kinh doanh BH sửa đổi cần quy định rõ: Đối với yêu cầu KSNB, bao gồm: (i) Hiệu quả và an toàn trong hoạt động; bảo vệ, quản lý, sử dụng an toàn, hiệu quả tài sản và các nguồn lực; (ii) Hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực, hợp lý, đầy đủ và kịp thời; (iii) Tuân thủ pháp luật và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ, (iv) DNBH phải thiết lập các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục KSNB; đảm bảo người quản trị, điều hành và người lao động hiểu rõ và nghiêm túc thực hiện; (v) Hoạt động của KSNB của DNBH phải được KTNB, tổ chức kiểm toán độc lập đánh giá định kỳ; Đối với hoạt động KTNB cần yêu cầu DNBHPNT thành lập bộ phận KTNB trực thuộc HĐQT/Hội đồng thành viên hoặc Ban kiểm soát. Nhiệm vụ của bộ phận KTNB bao gồm: (i) Rà soát, đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống KSNB; (ii) Đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ quy định, chính sách nội bộ, thủ tục, quy trình đã được thiết lập trong DNBHPNT; (iii) Đưa ra kiến nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, đề xuất biện pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các hệ thống, quy trình, quy định, góp phần bảo đảm DNBHPNT hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật
Thứ ba, Bộ Tài chính, Cục giám sát BH mặc dù trong thời gian qua, hoạt động của các bộ phận trực thuộc đã tích cực tuyên truyền hỗ trợ. Từ đó, nó đã đem lại kết quả nhất định đối với việc nâng cao hiểu biết và ý thức tự tuân thủ pháp luật liên quan kinh doanh BH, góp phần quan trọng vào việc đầy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát cho các DNBHPNT ở nước ta. Tuy nhiên, hoạt động này nhiều khi cũng không tránh khỏi sự chủ quan từ phía các cơ quan nhà nước, sự hỗ trợ nhiều lúc chưa kịp thời, để giải đáp các vướng mắc liên quan đến đăng ký các sản phẩm, trích hoa hồng, trích lập dự phòng, mở đại lý BH đến việc các quy định KSNB và KTNB đảm bảo uy tín cho DN và đem lại lợi ích cho khách hàng. Kinh doanh BH là lĩnh vực kinh doanh rủi ro rất nhạy cảm theo quan điểm của các nhà quản lý và nhà nghiên cứu nên thành lập một trung tâm chuyên trách hỗ trợ các DNBH các vướng mắc ứng phó trong kinh doanh BH.
Thứ tư, Cục giám sát BH cần thành lập trung tâm dữ liệu BH, theo đó các dữ liệu của các DNBH có thể thống nhất, tích hợp tự động, cập nhật kịp thời và tính liên kết cao giữa các phần mềm DN và Cục nhằm phục vụ cho việc giám sát như: giám sát sản phẩm, định phí chính xác, trích lập dự phòng, chi trả hoa hồng, tái BH, mở đại lý, hỗ trợ phát hiện và cảnh báo sớm các rủi kinh doanh của các DN như trục lợi BH. Với việc thành lập trung tâm dữ liệu BH, cần phải đào tạo, hướng dẫn khai thác, sử dụng cho các cán bộ Cục giám sát và các DN, đồng thời phải thường xuyên rà soát việc cập nhật dữ liệu của các DNBHPNT và đảm bảo an toàn dữ liệu. Như vậy, hoạt động của trung tâm dữ
liệu mới đảm bảo cho quá trình khai thác, vận hành đi vào thực chất, sử dụng kịp thời, hữu ích những thông tin phục vụ giám sát BH và xây dựng chính sách cho DN.
5.3.2. Khuyến nghị với Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
Thứ nhất, Hiệp hội tiếp tục đóng vai trò, tiếng nói của mình, tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách nhà nước liên quan đến các quy định trong KSNB, KTNB đặc biệt trong lĩnh vực BH tới các DN thành viên. Từ đó, giúp DN lựa chọn xây dựng chiến lược kinh doanh, mục tiêu phát triển, tuân thủ các quy định của nhà nước về KSNB, KTNB và quy định kinh doanh BH.
Thứ hai, Hiệp hội tiếp nhận và phản ánh các kiến nghị của hội viên lĩnh vực BH đến cơ quan Bộ Tài chính, Cục giám sát BH xem xét giải quyết và hỗ trợ kịp thời.
Thứ ba, Hiệp hội cần hỗ trợ các DNBHPNT trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực về KSNB, KTNB phù hợp với yêu cầu luật định và các thông tư ban hành, đồng thời cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tư vấn về KSNB và KTNB cho các nhà quản lý.
5.4. Hạn chế của nghiên cứu và định hướng nghiên cứu tiếp theo
Bên cạnh kết quả nghiên cứu đã đạt được như đã trình bày ở trên, nghiên cứu này không khỏi tồn tại những hạn chế như:
Thứ nhất, tổng hợp lý thuyết và nghiên cứu trước về thành phần KSNB, tính hữu hiệu KSNB, nhất là trong lĩnh vực BH chưa được các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu bài bản và hệ thống, nghiên cứu dựa trên nền tảng KSNB theo COSO và lý thuyết ngẫu nhiên trong các tổ chức. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu thêm các lý thuyết KSNB phục vụ cho các mục đích khác nhau làm phong phú thêm cho các hướng nghiên cứu.
Thứ hai, do hạn chế về thời gian nên mô hình này chỉ được kiểm định đối với các DNBHPNT, trong đó chưa đề cập đến các DNBH nhân thọ. Do đó, cần mở rộng cho các đối tượng khác. Nghiên cứu được tiến hành chủ yếu trên địa bàn Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận. Nghiên cứu cần mở rộng mẫu nghiên cứu sang các tỉnh thành khác nhau trong cả nước để đảm bảo tính tổng quát hóa của kết quả nghiên cứu để từ đó có bức tranh rõ nét về thành phần KSNB, và tính hữu hữu KSNB của các DNBHPNT Việt Nam.
Thứ ba, nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện, do đó chưa mang tính khách quan ngẫu nhiên và tính chất đại diện cao của mẫu. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng đã thực hiện tuân thủ phương pháp nghiên cứu khoa học và quy trình lấy mẫu cho nên kết quả nghiên cứu vẫn đem lại độ tin cậy cao. Do đó, nghiên cứu trong thời gian
tới cần hướng đến cách chọn mẫu ngẫu nhiên khoa học hơn đảm bảo độ tin cậy cho tổng thể nghiên cứu.
Thứ tư, nghiên cứu lựa chọn các nhân tố mang đặc tính ngẫu nhiên trong tổ chức mà tác giả đưa vào mô hình nghiên cứu dựa trên khung KSNB của COSO, các học giả trên thế giới và lý thuyết ngẫu nhiên trong các tổ chức. Tuy nhiên trong tương lai, nghiên cứu cần bổ sung thêm các nhân tố tác động khác ảnh hưởng đến thành phần KSNB và tính hữu hiệu KSNB. Ngoài ra, nghiên cứu có thể xem xét hướng nghiên cứu về đo lường tính hữu hiệu không chỉ bằng cảm nhận của nhà quản lý mà có thêm xem xét đo lường bằng hiệu quả hoạt động của DN; nghiên cứu có thể xem xét mở rộng sang các lĩnh vực khác ngoài BH, từ đó kiểm định mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu KSNB.