Thông thường nghề
nghiệp có liên quan chặt chẽ
với trình độ
văn
hóa, thu nhập. Các yếu tố này đều ảnh hưởng lớn tới nhu cầu du lịch. Vì vậy, nghiên cứu khách theo nghề nghiệp sẽ phân tích được khả năng nhận thức, sở thích, khả năng chi trả của từng loại khách để có khả năng cung ứng phù hợp.
Khách có thu nhập cao: đây là số gia đình có mức sống giàu có. Theo số liệu của Nguyễn Thị Hải (2002), số hộ này chiếm khoảng 18,9% số dân của Hà Nội. Theo điều tra của tác giả năm 2012 và năm 2014 ở 4 quận nội thành Hà Nội ở các ngành nghề khác nhau thì có khoảng 39,4% có mức thu nhập từ 6 triệu đến 10 triệu/ tháng/ 1 người trở lên. Họ hầu hết là những người kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ tư nhân, những hộ buôn bán cỡ vừa và lớn hoặc một số lao động trong các ngành nghề có thu nhập cao như dầu khí, ô tô, giáo viên, viên chức …, hoặc có một số người tham gia liên doanh, đối tác với nước ngoài. Thu nhập hàng tháng của họ từ 6 – 10 triệu đồng trở lên. Những người có thu nhập cao này có nhu cầu du lịch nhiều hơn. Họ chọn những dịch vụ tiện nghi và sang trọng.
Khách có thu nhập trung bình từ 3 triệu đến dưới 6 triệu/ tháng/ 1 người. Số này chiếm đa số ở Hà Nội. Họ là những cán bộ, công nhân, viên chức trong các cơ quan hành chính, sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, người làm nghề tự do… Họ là những người có văn hóa, trình độ và có nhu cầu du lịch cao, ở Hà Nội thì bộ phận này chiếm khoảng 45,9% .
Người có thu nhập thấp dưới 3 triệu đồng tháng/ 1 người, phần lớn là
những người lao động nông nghiệp hoặc chưa có việc làm ổn định, họ
sống chủ yếu ở khu vực ngoại thành. Trình độ văn hóa của họ không cao và tất nhiên nhu cầu du lịch cũng như khả năng chi trả của họ đều rất thấp.
Nếu có đi du lịch thì các chuyến đi của họ thường đông người và sử dụng những dịch vụ rẻ tiền. Ở Hà Nội bộ phận này chiếm khoảng 13,1%.
13.1
47.5
39.4
Như vậy, người dân ở Hà đều có thu nhập cao và trung bình, thu nhập thấp rất ít, họ có khả năng chi trả cho mình những chuyến đi DLCT.
Dưới 3 triệu/ tháng/ gia đình
Từ 3 triệu – dưới 6 triệu/ tháng/ gia đình
6 triệu – 10 triệu đồng trở lên/ gia đình
Hình 2.3. Cơ cấu thu nhập mẫu phiếu điều tra
(Nguồn: số liệu điều tra)
2.3.2.4. Số người trong gia đình
Theo điều tra của tác giả qua 2 đợt khảo sát 2012, 2014 ở 4 quận nội thành Hà Nội, số người trong gia đình chủ yếu là 3 đến 5 người. Vì vậy khi đi DLCT họ thường đi theo cả gia đình hoặc đi theo nhóm từ 2 hoặc 3 người trở lên. Vì vậy các công ty lữ hành ở Hà Nội và các điểm đón khách DLCT cần tổ chức, tiếp thị sản phẩm phù hợp với các nhóm nhỏ.
2.3.3. Nhu cầu, sở thích
Để nghiên cứu nhu cầu, sở thích du lịch của một khu vực nào đó cần có nguồn số liệu thống kê về số lượng khách và những hoạt động du lịch của họ trong một thời gian nhất định. Song các cơ quan du lịch của Hà Nội
chỉ theo dõi được lượng khách từ các nơi tới Hà Nội chứ không theo dõi
được lượng người Hà Nội đi DLCT
ở các nơi khác. Để
khắc phục khó
khăn về nguồn số liệu và để biết được số lượng người Hà Nội đi DLCT cũng như nhu cầu, sở thích của họ về dịch vụ. Không còn cách nào khác là
tiến hành điều tra xã hội học. Tác giả
đã căn cứ
vào cơ
cấu dân cư các
quận nội thành Hà Nội, tiến hành điều tra nhu cầu, sở thích của người dân
Hà Nội theo một bảng hỏi được xây dựng riêng (xem phần phụ lục 1)
thuộc mọi ngành nghề, lứa tuổi. Vì thời gian có hạn nên tác giả chỉ tiến hành điều tra được 4 quận nội thành Hà Nội (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa).
Kết quả điều tra đợt 1, tiến hành năm 2012 với 127 phiếu, có 75
người đi nghỉ
cuối tuần trên 2 lần/ 1 năm chiếm 59,1% số
người được
hỏi. Họ phần lớn là học sinh – sinh viên, số còn lại là những cán bộ làm trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, cán bộ nghiên cứu, giáo viên. Một số ít là các nhà doanh nghiệp và những người làm các ngành nghề tự do khác. 35,4% đi DLCT 1 2 lần trong năm, còn lại 4,5% ít đi DLCT.
Phân tích kết quả điều tra đợt 2 năm 2014 với 158 phiếu, có 106
người đi nghỉ cuối tuần trên 2 lần chiếm 67,1% số người được hỏi, 28,5% đi từ 1 – 2 lần, 4,4% ít đi du lịch.
So sánh kết quả điều tra của hai năm 2012 và 2014 cho thấy lượng
nhu cầu đi DLCT tăng lên đáng kể (xem hình 2.4. ). Nhu cầu đi DLCT của người dân Hà Nội ngày càng tăng cao do sức ép từ công việc, môi trường sống ô nhiễm, người dân muốn đến những nơi có không khí trong lành, mát mẻ để nghỉ ngơi, thư giãn.
Đi 1 - 2 lần Đi > 2 lần
Không thường xuyên đi du lịch
4.4
28.5
67.1
Hình 2.4. Số lần đi DLCT trong năm của người dân Hà Nội
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Về cơ cấu khách tham gia DLCT của Hà Nội trong năm 2014
không có gì thay đổi so với 2012, học sinh – sinh viên, công chức nhà nước, giáo viên chiếm tỷ lệ lớn 64,7%, vì họ có nhiều thời gian rảnh rỗi cuối tuần. 35,3%, là nhân viên doanh nghiệp, tiểu thương, nghỉ
hưu và các ngành nghề tự do khác, đối tượng này thường đi du lịch
cuối tuần ít so với đối tượng trên do hạn chế về thời gian và đặc
điểm nghề nghiệp, họ thường có xu hướng đi du lịch dài ngày vào một thời điểm trong năm. (xem hình 2.5.)
Như vậy cho thấy số lượng cũng như cơ cấu người đi DLCT ở Hà
Nội chủ yếu là học sinh – sinh viên, công chức nhà nước, giáo viên vì
có nhiều thời gian nghỉ cuối tuần. Do đó, cần tổ chức các chương trình DLCT phù hợp với nhu cầu, sở thích của đối tượng này.
19.6 | Học sinh – sinh viên | ||
35.3 | Công chức Nhà nước | ||
Giáo viên | |||
27.4 | |||
Các ngành nghề khác (Nhân viên doanh | |||
17.7 | nghiệp, tiểu thương, nghỉ hưu, nghề tự do) | ||
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Du Lịch Và Cơ Sở Hạ Tầng
- Một Số Điểm Có Thể Phát Triển Du Lịch Cuối Tuần
- Điều Kiện Cầu Du Lịch Cuối Tuần Ở Sơn Tây Của Người Dân Hà Nội
- Nhận Xét Chung Về Điều Kiện Phát Triển Du Lịch Cuối Tuần Ở Sơn Tây
- Một Số Giải Pháp Khai Thác Các Điều Kiện Cho Phát Triển Du Lịch Cuối Tuần Ở Sơn Tây
- Giải Pháp Phát Triển Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật, Cơ Sở Hạ Tầng
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Hình 2.5. Cơ cấu người đi DLCT ở Hà Nội
(Nguồn: Số liệu điều tra)
2.3.3.1. Nhu cầu đối với dịch vụ đặc trưng
Hiện nay, các hình thức hoạt động DLCT hết sức đa dạng và phong phú. Du khách có thể tham quan ngắm cảnh, nghỉ ngơi thư giãn, câu cá, bơi thuyền, bơi lội, đốt lửa trại, chơi thể thao (cầu lông, tennis, bóng chuyền)
… Tuy nhiên, hoạt động mà khách ưa thích là tham quan ngắm cảnh chiếm 27,5%, nghỉ ngơi thư giãn chiếm 25,4%. Ngoài ra các hoạt động vui chơi ngoài trời người dân Hà Nội cũng rất thích, tổng các hoạt động này chiếm
46,79% số người được phỏng vấn. Trong đó câu cá chiếm 7,4%, bơi
thuyền chiếm 6,65%, bơi lội chiếm 8,1%, lửa trại chiếm 15,14%, chơi thể thao 9,5% (xem bảng 2.6.).
Bảng 2.6. Hoạt động ưa thích của người dân Hà Nội tại điểm DLCT
Tỷ lệ (%) | |
Tham quan ngắm cảnh | 27,7 |
Nghỉ ngơi, thư giãn | 25,4 |
Câu cá | 7,4 |
Bơi thuyền | 6,65 |
8,1 | |
Lửa trại | 15,14 |
Chơi thể thao | 9,5 |
Tổng | 100,0 |
(Nguồn: số liệu điều tra)
Khi được hỏi về mục đích của chuyến đi, có 40,1% khách đi DLCT để xả stress, 34,8% đi DLCT để có thời gian cùng gia đình, 25,1% đi DLCT để có thời gian cùng bạn bè. Như vậy, khách đi DLCT chủ yếu để xả stress và có thời gian bên gia đình. Điều này cũng dễ hiểu, do điều kiện làm việc áp lực, căng thẳng, cuộc sống bận rộn, ít có thời gian bên gia đình, con cái. Vì
vậy, các chuyến đi DLCT là để
có thời gian vui chơi, thư
giãn, sum vầy
cùng gia đình, xả stress, tái tạo lại sức lao động sau một tuần làm việc căng thẳng. Ngoài ra, các chuyến đi DLCT còn là khoảng thời gian vui chơi, giải trí cùng bạn bè, mở rộng các mối quan hệ. Đối tượng này chủ yếu là học
sinh – sinh viên. Họ
thường tổ
chức các chuyến đi DLCT cùng bạn bè,
thường từ
3 – 5 người trở
lên hoặc tổ
chức các hoạt động teambuiding
ngoài trời để hiểu nhau hơn và nâng cao kỹ năng sống của mình (xem bảng 2.7.)
Bảng 2.7. Mục đích đi du lịch cuối tuần
Số lượng | Tỷ lệ (%) | |
Có thời gian cùng gia đình | 50 | 34,8 |
Có thời gian cùng bạn bè | 36 | 25,1 |
Xả stress | 58 | 40,1 |
Tổng | 100,0 |
(Nguồn: số liệu điều tra)
Người dân Hà Nội khi đi DLCT rất thích đến những nơi có biển, núi, làng quê yên bình để nghỉ ngơi, thư giãn, giải tỏa căng thẳng. Theo điều tra
của tác giả ở 4 quận nội thành Hà Nội thì người dân rất thích đi đến
những nơi có biển chiếm 32,8% số
người được hỏi, 30,75% số
người
được hỏi thích đến những nơi có núi. Họ chủ yếu là giáo viên, công chức
nhà nước, nhân viên viên doanh nghiệp, tiểu thương, học sinh – sinh viên, thích các hoạt động ngoài trời, bơi lội, tắm biển, leo núi, tham quan ngắm cảnh. Làng quê yên bình cũng là một địa điểm lý tưởng cho những chuyến DLCT của người dân thành thị chiếm 30,1%, chủ yếu là những người về hưu, giáo vên, công chức, học sinh – sinh viên đến để nghỉ ngơi, thư giãn,
tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ
cũng như
tìm hiểu văn hóa, lối
sống, phong tục của làng quê Việt Nam. Những địa điểm khác chiếm tỷ lệ ít 6,4%.
Nhìn chung, khi đi DLCT người dân Hà Nội thích đến những nơi có bãi biển, hồ nước, có núi, những vùng làng quê yên bình cũng rất được ưa thích. Sơn Tây có đầy đủ các điều kiện để đáp ứng các nhu cầu du lịch của người dân Hà Nội, có nhiều hồ nước nhân tạo như hồ Đồng Mô, hồ Xuân Khanh, Suối Hai, Khoang Xanh, KS Asean resort & spa … có thể tổ chức các hoạt động bơi lội, bơi thuyền, câu cá, có địa hình đồi núi xen kẽ có thể tổ chức cắm trại trong rừng như Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, Sơn tinh caping ở Đồng Mô…, Làng cổ Đường Lâm – một vùng quê yên bình còn lưu giữ lại được những nét đẹp cổ kính của làng quê Việt Bắc Bộ, ở đây có không gian rộng du khách có thể thả diều, tập
làm nông dân, tham quan các di tích lịch sử, làng nghề thống…
thủ
công truyền
Bảng 2.8. Sở thích đối với các điểm tài nguyên du lịch của người dân Hà Nội
Tỷ lệ % | |
Núi | 30,75 |
Biển | 32,8 |
Làng quê | 30,1 |
Khác | 6,4 |
Tổng | 100 |
(Nguồn: số liệu điều tra)
Người đi DLCT còn quan tâm tới khoảng cách của điểm du lịch so với
nơi thường trú của họ. Nghiên cứu yếu tố
này sẽ
cho biết khoảng cách
được ưa thích, từ đó có thể ưu tiên lựa chọn tài nguyên nằm trong khoảng cách phù hợp. Theo điều tra của tác giả, số người thích khoảng cách từ 36
– 75 km đi từ 1 đến 2 giờ chiếm tỷ lệ cao nhất 47,5%; sau đó là số người thích khoảng cách đi đường dưới 1 giờ từ 15 – 35 km 28,5%; khoảng cách xa hơn hoặc quá gần thường ít được ưa thích (xem bảng 2.9.).
Bảng 2.9. Sở thích về khoảng cách tới các điểm du lịch cuối tuần
Thời gian đi đường (giờ) | Số lượng người ưa thích | Tỷ lệ người ưa thích (%) | |
< 20 | 0,5 | 7 | 4,4 |
20 35 | < 1 | 45 | 28,5 |
36 75 | 1 2 | 75 | 47,5 |
76 100 | 2 – 2,5 | 18 | 11,4 |
>100 | > 2,5 | 13 | 8,2 |
Tổng | 158 | 100,0 |
(Nguồn: số liệu điều tra) Như vậy Sơn Tây có đầy đủ các điều kiện tự nhiên, khoảng cách gần,
cách Hà Nội hơn 40 km về
phía Tây, giao thông thuận lợi đáp
ứng nhu
cầu, sở thích của người dân Hà Nội. Đây hứa hẹn là một điểm DLCT hấp dẫn của người dân thành phố.
2.3.3.2. Nhu cầu đối với dịch vụ chính