Công Tác Quản Lý Điểm Đến Du Lịch Vịnh Hạ Long


thác các giá trị văn hoá, nghệ thuật dân gian, nghề thủ công truyền thống phục vụ du lịch còn nhiều hạn chế.

Các doanh nghiệp du lịch khai thác tài nguyên du lịch Vịnh Hạ Long nhìn chung năng lực cạnh tranh còn yếu, tính liên kết kém.Các doanh nghiệp mới chỉ tập trung phục vụ các thị trường khách quen thuộc như: Trung Quốc, Đài Loan hay Hồng Kông chứ chưa đủ sức vươn tới các thị trường tiềm năng như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Châu Âu…

Sản phẩm du lịch, chương trình tour tuyến, điểm tham quan còn đơn điệu, chưa tương xứng với giá trị đích thực của một Di sản thiên nhiên thế giới.

Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch còn yếu, chưa theo kịp sự phát triển của ngành cũng như hình ảnh của Vịnh Hạ Long. Hạn chế trong công tác vận động bình chọn Vịnh Hạ Long. Điều này thể hiện rõ nhất qua việc kết hợp thiếu chặt chẽ, chưa đạt hiệu quả trong quảng bá và vận động bình chọn Vịnh Hạ Long là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới.

2.2. Công tác quản lý điểm đến du lịch Vịnh Hạ Long

2.2.1. Thực trạng bộ máy quản lý hoạt động du lịch tại Vịnh Hạ Long

Với sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, sự giúp đỡ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các bộ, ban, ngành của Trung ương, sự phối hợp, hỗ trợ của UNESCO và các tổ chức quốc tế khác, tỉnh Quảng Ninh đã có những nỗ lực với nhiều giải pháp tích cực để quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị của Di sản Vịnh Hạ Long, trong đó quyết định thành lập BQLVHL với chức năng là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý Nhà nước về bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh được xem là chiến lược hiệu quả đưa công tác quản lý Di sản đi vào nề nếp, ổn định.


Hình 2.3. Sơ đồ BQLVHL

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.


Bộ VHTT & DL

Nghiên cứu công tác quản lý điểm đến du lịch Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh - 9

UBND TỈNH QN

UB UNESCO VN

BQL Vịnh Hạ Long


Trưởng ban


Phó trưởng ban


Văn phòng

Phó trưởng ban

P. Nghiệp vụ

- Nghiên cứu

TTBTCV

Hang động

P. Tài chính Kế hoạch

TTBTVH

biển

TT cứu hộ, cứu nạn VHL

P. Quản lý dự án

Đội quản lý chiếu sàng NT

TTBTPT

Giải trí biển

P. Quản lý môi trường

TTBT Vịnh Bái Tử Long

Đội QL Kỹ thuật

phương tiện

Đội KT – XLVP trên VHL

TTBT Cửa

Vạn


Nguồn: BQLVHL


Sau khi Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới (ngày 17/12/1994), Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh ra Quyết định số 2796/QĐ - UB ngày 09/12/1995 thành lập BQLVHL và Quyết định số 419/QĐ- UB ngày 02/03/1999 quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của BQL Vịnh Hạ Long.

Chức năng:

BQLVHL là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, có chức năng giúp UBND tỉnh Quảng Ninh quản lý Nhà nước đối với Vịnh Hạ Long nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long, mà trọng tâm là khu vực Di sản thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận, đồng thời, chịu sự quản lý, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan.

Nhiệm vụ:

- Tham mưu, đề xuất, giúp UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành qui chế, qui định quản lý Vịnh Hạ Long.

- Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc chấp hành Qui chế Quản lý Vịnh Hạ Long của UBND tỉnh.

- Thẩm định các dự án kinh tế - xã hội liên quan đến Vịnh Hạ Long và giám sát các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi Vịnh Hạ Long.

- Chủ trì và phối hợp với các ngành, địa phương liên quan kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với Vịnh Hạ Long.

- Tổ chức nghiên cứu khoa học về Vịnh Hạ Long.

- Xây dựng và thực hiện các kế hoạch tu bổ, tôn tạo, đầu tư, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long.

- Tổ chức thông tin, tuyên truyền, quảng bá, giáo dục cộng đồng về giá trị Vịnh Hạ Long.

- Tổ chức quản lý, giữ gìn bãi đảo, hang động, vệ sinh môi trường Vịnh Hạ Long.


- Tổ chức bán vé, thu phí tham quan Vịnh Hạ Long, đón tiếp, hướng dẫn và giới thiệu khách tham quan Vịnh Hạ Long.

- Tổ chức phòng chống giảm thiểu hậu quả thiên tai, tai nạn và tìm kiếm, cứu nạn trong phạm vi Vịnh Hạ Long.

- Tổ chức các hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, thực tế bộ máy của BQL Vịnh còn khá cồng kềnh, chồng chéo.

Hiện BQLVHL có 14 đơn vị trực thuộc với 378 cán bộ, viên chức, lao động/tổng số 392 biên chế được giao. Nói về thực trạng đơn vị, trưởng BQLVHL (bà Phạm Thùy Dương) đã thẳng thắn nhận định: “Bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, chưa thực sự tập trung, tinh gọn, hiệu quả…”. Ban có tới 4 trung tâm bảo tồn Di sản có chức năng, nhiệm vụ như nhau và quản lý theo địa giới hành chính. Một số chức năng, nhiệm vụ do nhiều đơn vị cùng thực hiện, một số đơn vị còn có số lượng cán bộ làm công việc gián tiếp nhiều. Như ở các trung tâm bảo tồn Di sản đều có bộ phận văn phòng, từ 5-6 cán bộ. Trong khi đó, tại các vị trí khác lại thiếu người, như quản lý điểm lưu trú nghỉ đêm, cứu hộ, cứu nạn. Một số đơn vị cũng chưa thể hiện được tính chuyên môn sâu và chưa nâng cao được chất lượng, hiệu quả tại các lĩnh vực công tác, như hướng dẫn viên, quản lý dự án, bảo vệ Di sản...

Bên cạnh đó, nhiều đơn vị có chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, trùng lặp, dẫn đến giảm hiệu quả công việc. Cụ thể: việc xây dựng chương trình, kế hoạch, giải pháp để quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Di sản đang giao cho 6 đơn vị; việc tuyên truyền cộng đồng bảo vệ Di sản hiện đang giao cho 10 đơn vị; khâu hướng dẫn, thuyết minh cũng giao cho 4 đơn vị; khâu xây dựng chương trình, kế hoạch quản lý và bảo vệ môi trường giao cho 6 đơn vị cùng thực hiện, v.v.. Hoạt động của một số đơn vị cũng chưa thực sự hiệu quả: như đội quản lý kỹ thuật – phương tiện, hiện mới chủ yếu thực hiện việc quản lý phương tiện, chưa phát huy được vai trò tham mưu các vấn đề về kỹ thuật để đảm bảo hiệu quả quản lý, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị của Ban. Hay như đội quản lý


chiếu sáng nghệ thuật thực chất không phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý, bảo tồn giá trị Di sản. Công trình chiếu sáng nghệ thuật (tại khu quảng trường 30

– 10) nằm ở ngoài trời, thường xuyên phải bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa, việc vận hành cũng đòi hỏi nhân lực có trình độ. Với thực trạng nhân viên của đội hiện nay là không thể đáp ứng đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo hiệu quả công việc này, từ vận hành, bảo dưỡng đến khai thác hệ thống chiếu sáng...

Một vấn đề nữa cần bàn tới đó là số lượng cán bộ được đào tạo chuyên ngành về bảo tồn Di sản thiên nhiên của Ban còn ít, kinh nghiệm trong quản lý một Di sản đặc thù như Vịnh Hạ Long còn hạn chế. Số lượng cán bộ có chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm ở một số lĩnh vực còn chưa nhiều như cán bộ nghiên cứu môi trường, kiểm tra xử lý vi phạm, đối ngoại, đầu tư triển khai dự án. Cũng do đặc thù công việc của Ban nên chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều, việc bố trí lao động có chỗ chưa hợp lý, hiệu quả công việc ở một số đơn vị còn thấp....

2.2.2. Sự cam kết giữa lĩnh vực công và lĩnh vực tư nhân

Các cơ quan quản lý về du lịch đã có sự hợp tác, liên kết với các cơ quan công quyền, các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn và cả cộng đồng dân cư địa phương giúp cho hoạt động du lịch phát triển theo định hướng mà quy hoạch du lịch đã vạch ra cũng như tuân thủ đúng pháp luật nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Có thể thấy rõ sự cam kết này qua một số hoạt động cụ thể sau:

- BQLVHL đã kết hợp với Sở VHTT&DL Quảng Ninh tổ chức hướng dẫn thực hiện luật du lịch do Nhà nước ban hành cho các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn cũng như cư dân địa phương và khách du lịch khi đến Vịnh Hạ Long. Đồng thời để quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực Di sản,định hướng cho doanh nghiệp trong việc khai thác giá trị của Di sảnVịnh Hạ Long. BQLVHL thường xuyên phối hợp với các ngành chức năng, địa phương liên quan kiểm tra, giám sát và kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm hại đến Di sản. Việc phối hợp giữa Ban với chính quyền


các khu dân cư, các tổ cộng tác viên dân chài, tình nguyện viên trong việc bảo vệ Di sản luôn được quan tâm. Mạng lưới cộng tác viên tại các làng chài trên Vịnh được duy trì hoạt động đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác giám sát các hoạt động kinh tế xã hội cũng như phát hiện các vi phạm trên Vịnh Hạ Long.

- Tỉnh Quảng Ninh cũng nhìn nhận những hoạt động dịch vụ du lịch trên Vịnh Hạ Long nếu như không được tổ chức tốt hơn thì sẽ có những tác động tiêu cực đến môi trường và giá trị Di sản, Kỳ quan thiên nhiên thế giới của Vịnh Hạ Long. Vì vậy tỉnh có chủ trương tách chức năng, nhiệm vụ dịch vụ, khai thác, thu phí Vịnh Hạ Long ra khỏi BQLVHL để BQLVHL chuyên sâu, tập trung nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước đối với Di sản để bảo tồn, phát huy giá trị Di sảnVịnh Hạ Long - tài sản thiên nhiên vô giá của nhân loại một cách hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn.[17]

Đối với chức năng quản trị dịch vụ trên Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh mời các tổ chức, doanh nghiệp có năng lực để quản trị các hoạt động dịch vụ này. Đơn vị quản trị phải có phương án quản trị đáp ứng được yêu cầu đổi mới, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch có giá trị, nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ trên Vịnh Hạ Long đảm bảo tính chuyên nghiệp, đồng bộ, bền vững, hiệu quả và tôn vinh giá trị Di sản.Tuy nhiên, tỉnh Quảng Ninh nhất quán quan điểm, đây không phải là dự án, do vậy không có giao quản lý đất, mặt nước. Đề án Nâng cao chất lượng khai thác dịch vụ Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long với nhượng quyền thu phí trong vòng 50 năm mà Tập đoàn Bitexco (Cty TNHH và Kinh doanh Xuất nhập khẩu Bình Minh) vừa đề xuất với UBND tỉnh Quảng Ninh chưa biết sẽ đi đến kết quả ra sao nhưng ít nhất Tập đoàn này đã khởi động cho một xu hướng cả về hợp tác công tư lẫn nhượng quyền thương hiệu… Ngay sau Bitexco, một doanh nghiệp đang kinh doanh hiệu quả trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Tập đoàn Tuần Châu, cũng có công văn đề nghị muốn tham gia đấu thầu quyền quản lý khai thác Vịnh Hạ Long.[1]


2.2.3. Công tác quản lý nguồn nhân lực

Kết quả khảo sát của tác giả về công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp du lịch nói riêng ở điểm đến du lịch Vịnh Hạ Long cho thấy 25 phiếu đánh giá là rất thường xuyên, hiệu quả (chiếm 50% tổng số phiếu thu về); 18 phiếu cho rằng không thường xuyên, hiệu quả và 7 phiếu không có ý kiến. Như vậy, số liệu trên đã phần nào cho thấy hoạt động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp du lịch và cho ngành đã được quan tâm chú trọng. Cụ thể, trong năm 2013, ngành Du lịch Quảng Ninh đã mở rất nhiều khoá đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành. Theo số liệu thống kê của Sở VHTT&DL Quảng Ninh, trong 3 năm trở lại đây, ngành Du lịch đã phối hợp với các cơ sở đào tạo có uy tín đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cho 61 khoá học với tổng số gần 5 ngàn nhân lực của ngành theo nhiều hình thức khác nhau, như đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng, nâng cao… Trong các chương trình đào tạo, ngành Du lịch đã chú trọng đào tạo kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn hoá trong du lịch. Cũng tính riêng từ năm 2010 đến nay, ngành Du lịch phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đào tạo thạc sĩ du lịch cho 24 cán bộ quản lý Nhà nước về du lịch, giảng viên Trường Cao đẳng Văn hoá, Nghệ thuật và Du lịch Hạ Long, BQLVHL và lãnh đạo một số doanh nghiệp du lịch; phối hợp với Hiệp hội Du lịch, Công an tỉnh, Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Du lịch Hạ Long, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Giao thông - Vận tải… tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho hàng trăm chủ tàu, cán bộ quản lý, điều hành trên Vịnh Hạ Long và hàng nghìn nhân viên phục vụ tàu du lịch trên Vịnh Hạ Long; nâng cao năng lực quản lý cho lãnh đạo và nhân viên của các khách sạn, nhà hàng, điểm mua sắm, chợ đêm du lịch Bãi Cháy; đào tạo, bồi dưỡng, sát hạch cấp chứng chỉ cho hướng dẫn viên du lịch quốc tế; tập huấn nghiệp vụ du lịch cho lái xe ô tô du lịch v.v..


Điều đáng nói, năm 2012 ngành Du lịch đã ký biên bản hợp tác phát triển du lịch với dự án EU của Liên minh châu Âu để hỗ trợ xây dựng Điều khoản tham chiếu cho chuyên gia quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; hỗ trợ chương trình tổng thể quản lý điểm đến; chương trình đào tạo nhân lực du lịch. Chỉ tính riêng trong năm 2013, ngành Du lịch phối hợp với chuyên gia dự án EU mở 14 lớp đào tạo cho 1.014 cán bộ quản lý, thuyết minh viên du lịch và cộng đồng tham gia hoạt động du lịch tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, Dự án EU còn phối hợp với ngành Du lịch xây dựng bộ tiêu chuẩn nghề “Phục vụ tàu du lịch” dành cho nhân lực phục vụ tàu du lịch trên Vịnh Hạ Long. Sau khi bộ tiêu chuẩn nghề này hoàn thành sẽ được Tổng cục Du lịch chính thức phê duyệt và áp dụng đào tạo thí điểm tại khu vực Hạ Long.

Việc phát triển nguồn nhân lực của ngành Du lịch đang được triển khai đồng bộ. Từ việc xây dựng quy hoạch dài hạn, tổng thể đến xây dựng kế hoạch, chương trình, thực hiện các biện pháp có tính chất cấp bách, thường xuyên và đã có được những kết quả nhất định góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch Quảng Ninh. Nhìn chung, nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh nói chung và khu vực Vịnh Hạ Long nói riêng hiện nay đã có sự chuyển biến rõ rệt, đổi mới, nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, từng bước đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh du lịch theo cơ chế thị trường. Hiện tại, ngày càng có nhiều doanh nghiệp áp dụng mô hình quản trị nguồn nhân lực tiên tiến, làm tốt các khâu tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực. Đặc biệt, những doanh nghiệp du lịch lớn có đội ngũ lao động chất lượng khá, được đào tạo bài bản, chính quy, có ý thức, thái độ nghề nghiệp nghiêm túc, kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ khá chuyên nghiệp, đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, hiện nay lực lượng lao động của ngành Du lịch tại khu vực Vịnh Hạ Long vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đó là chất lượng đội ngũ lao động du lịch có sự chênh lệch khá rõ về mặt chuyên môn nghiệp vụ giữa những doanh

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 11/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí