Phân Hóa Vùng Dưới Tác Động Của Quá Trình Cnh-Hđh


bằng miền Bắc, vùng Nghệ - Tĩnh, Thuận Hóa - Phú Xuân, Nam Trung Bộ, TN, Đồng bằng miền Nam, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Có thể quan niệm "vùng" là một thực thể KTXH bao gồm những đặc điểm về cảnh quan - lãnh thổ, trình độ và cách thức hoạt động kinh tế, và các đặc điểm về văn hóa vật thể (nhà cửa, y phục, ẩm thực ...), về văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng - tôn giáo...), trong đó có một số đặc trưng điển hình so với các vùng khác.

Các vùng KTXH không phải là những "ốc đảo". Các đặc điểm, kể cả những đặc trưng điển hình của vùng, trên thực tế là kết quả tiếp biến từ hai, ba vùng khác nhau liền kề. Trong quá trình phát triển theo hướng CNH-HĐH với sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những đặc điểm, kể cả những đặc trưng điển hình, tính thống nhất của các vùng KTXH đã và sẽ được tăng cường và ngày càng thể hiện rõ trên nhiều phương diện. Vì thế, vấn đề đặt ra hiện nay là phải tăng cường bảo tồn, phát triển những đặc trưng điển hình với tính cách là những lợi thế so sánh, nhằm thúc đẩy các vùng phát triển nhanh, ổn định và có tính cạnh tranh nhất định trong nền KTXH Việt Nam thống nhất mà đa dạng.

2.1.2.Phân hóa vùng dưới tác động của quá trình CNH-HĐH

Ở nước ta, thực trạng phân hóa vùng được quan tâm xem xét, đánh giá từ Đại hội VIII của Đảng (1996), tức là từ khi nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nền KTXH và bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH. Đại hội VIII đã thông qua "Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ", nhằm kết hợp sự phát triển có trọng điểm với sự phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt chênh lệch và nhịp độ phát triển giữa các vùng.

Vào năm 1999 đã có sự đo lường tương đối toàn diện sự phân hóa vùng trên các phương diện kinh tế, giáo dục và bảo vệ sức khỏe, (đánh giá theo các


chỉ số cơ bản của cách tính chỉ số phát triển con người (HDI) của LHQ). Mặc dù xét về thu nhập quốc dân theo đầu người thì vùng ĐNB cao gấp 5,5 lần so với vùng TB ở thời điểm này; nhờ các thành tựu về giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nên chỉ số HDI của TB chỉ thấp hơn vùng ĐNB có 1,3 lần. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người của vùng ĐNB so với vùng ĐBSH cao hơn 2,3 lần; song cũng nhờ các thành tựu về giáo dục, bảo vệ chăm sóc sức khỏe mà chỉ số HDI của vùng ĐBSH tương đương với vùng ĐNB. Vấn đề đặt ra hiện nay là sau hơn 10 năm đẩy mạnh CNH-HĐH, sự phân hóa về phát triển kinh tế có làm doãng khoảng cách phát triển chung giữa các vùng. Điều này thể hiện ở bảng thống kê tổng hợp sau. (Bảng 2.1).

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu phát triển DCXH cả nước và vùng ở Việt Nam



Tiêu chí


Năm

ĐV

đo

Toàn quốc

ĐB SH


ĐB


TB


BTB

DH NTB


TN


ĐNB

ĐB SCL


Mật độ DS

2009

Ng./k m2

257

1238

149

71

208

217

90

408

432

Gia tăng DS

2009

%

1.4

1.1

1.2

1.9

0.9

1.2

2.3

2.4

1.5

Tỉ lệ nghèo

2007

%

14.8

9.6

21.4

38.1

25.8

16.3

23

4.3

12.4

Thất nghiệp

2007

%

4.64

5.74

3.97

3.42

4.92

4.99

2.11

4.83

4.03

Thiếu VL ởNT

2007

%

81.8

80.7

81.8

78.8

77.9

79.8

82.7

83.5

81.7


Thu nhập

2006

Ng.đ/ thg

630

653

511

373

418

551

522

1065

628

TL biết chữ

2004

%

92.2

96.2

90.4

76

93.9

92.8

88.2

93.6

89.8

Tuổi thọ

2004

Năm

71.9

74.5

69.6

67.6

71.3

71.7

65.4

73.7

72.1

DS TT

2009

%

26.5

24.5

18.7

13.8

13.6

29.1

28.1

53.7

20.2

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học địa lí 9 - 5

Nguồn : 1. Niên giám thống kê năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2009.

2. Báo cáo về PT con người Việt Nam 1999 - 2004, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.

3. Tổng kiểm kê dân số và nhà ở 01.4.2009 (Thông báo ban đầu, TCTK 7/2009)

Cho đến những năm gần đây các vùng đồng bằng và duyên hải vẫn tiếp tục phát huy được các lợi thế so sánh, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Giữa các


vùng vẫn có sự khác biệt về tốc độ phát triển kinh tế như khi mới bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH. Sau khoảng 10 năm bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH, tính bình quân trên phạm vi cả nước, thu nhập đầu người tăng 30% thì biên độ thu nhập đầu người của các vùng dao động từ 20% - 40%. Cụ thể là các vùng tăng thấp cũng được 20% như TB, ĐB, BTB. Các vùng có mức tăng cao 40% là ĐNB, ĐBSCL. Hiện nay, biên độ dao động mức tăng thu nhập đầu người vẫn như vậy.

Có thể nói mức chênh lệch đó là không lớn và tương đối ổn định. Khoảng cách thu nhập giữa các vùng không bị doãng ra một cách bất thường (đột biến) và cũng không doãng ra với tốc độ lớn. Trong 10 năm qua, khoảng cách về thu nhập thực tế giữa vùng có mức thu nhập cao nhất (ĐNB) với vùng có thu nhập thấp nhất (TB) tăng từ 2,1 lần lên 3,1 lần.

Giữa ĐBSH và ĐBSCL mức thu nhập bình quân đầu người/tháng là tương đương nhau (488,2 nghìn đồng và 471,1 nghìn đồng). Mức chênh lệch giữa các vùng vào năm 2004 cao nhất là 3,1 lần (giữa ĐNB và TB). Đây là mức chênh lệch chưa quá lớn, kể cả khi xem xét trong khoảng thời gian 10 năm lại đây.

Khoảng cách thu nhập giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất diễn biến tương đối phức tạp từ năm 1994 - 2004, mức dao động là từ 6,5 lần đến 8,1 lần. Trong những năm gần đây mức chênh lệch theo ước đoán chung cũng dừng ở khoảng 9 lần. Như vậy, do nhiều nguyên nhân nên khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất không chuyển hóa một cách tương ứng thành khoảng cách lớn về mức sống, điều kiện sống trên phạm vi vùng (nông thôn và đô thị các vùng lãnh thổ).

Do sự tác động của quá trình CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế kết hợp với sự tác động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đã và sẽ dễ chuyển sự phân hóa


KTXH giữa các vùng, dù là chưa quá lớn - thành phân hóa về dân tộc, tôn giáo, văn hóa.

Giải pháp phát triển ổn định các vùng dưới sự tác động của quá trình CNH-HĐH : Một là, về nhận thức, cần phải làm rõ sự thống nhất của nền kinh tế, văn hóa ngày nay không diễn ra đơn điệu, mà thông qua sự đa dạng của các vùng. Bởi lẽ, một mặt, xét từ truyền thống lịch sử - văn hóa, dân tộc (quốc gia) Việt Nam là một cộng đồng gồm nhiều dân tộc cư trú, sinh sống lâu dài tại những vùng cảnh quan lãnh thổ khác nhau. Sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, HNQT với sự tác động của toàn cầu hóa, cũng tác động vào quá trình phát triển theo hướng thống nhất trong đa dạng và thông qua sự đa dạng. Sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đã và sẽ diễn ra thông qua sự đa dạng, mà vùng là biểu hiện tổng hợp của nhiều sự đa dạng khác nhau.

Cần tiếp tục làm rõ những nhận thức này, để có cách thức hoạch định, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, luật pháp, chính sách thích ứng với sự phát triển đa dạng vùng trong chỉnh thể kinh tế, xã hội, văn hóa của quốc gia.

Hai là, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách, để thúc đẩy các vùng trong nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng. Hiện nay cần phải xúc tiến việc thể chế hóa chương trình phát triển các VKTTĐ. Đây là hình thức vùng hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bứt phá có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế quốc dân. VKTTĐ có một số đặc điểm chủ yếu sau : Phạm vi bao gồm một số tỉnh (thành phố) và ranh giới có thể thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế đất nước Đóng góp tỉ trọng lớn trong GDP của quốc gia, tạo tốc độ tăng trưởng nhanh cho cả nước và có thể hỗ trợ các vùng khác. Có khả năng phát triển các ngành mới về công nghiệp và dịch vụ để từ đó lan tỏa ra các vùng khác.


Quá trình hình thành và phát triển 3 vùng KTTĐ được Chính phủ ra quyết định thành lập những năm 90 của thế kỷ XX, đó là : vùng KTTĐ Bắc Bộ (gồm 5 tỉnh, thành phố tương đương), vùng KTTĐ miền Trung (4 tỉnh, thành phố tương đương) và vùng KTTĐ phía Nam (4 tỉnh, thành phố tương đương). Từ năm 2004, các vùng KTTĐ được mở rộng thêm một số tỉnh mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới.

Ba vùng KTTĐ hiện nay đóng góp gần 70% GDP và 64,5% giá trị xuất khẩu của cả nước (năm 2005). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các vùng KTTĐ thời kỳ 2001-2005 đạt 11,7%/năm. Ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 89,5% cơ cấu GDP. Vùng KTTĐ Bắc Bộ và phía Nam phát triển mạnh nhất, vung KTTĐ miền Trung đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. và các Chương trình TB, TN, Tây Nam Bộ, thể hiện qua các kịch bản quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của cấp tỉnh, thành; đồng thời phải có sự chỉ đạo, từ trung ương đối với việc thực hiện nghiêm minh các quy hoạch, kế hoạch đó, nhằm đạt được những kết quả thực tế về liên kết nội vùng, liên vùng theo tỉnh, thành phố.

Cần xây dựng một số chủ trương, chính sách có tính đặc trưng cho mỗi vùng, và có khả năng kết nối liên vùng; đồng thời xác định quyền hạn, trách nhiệm cho một số tỉnh, thành có chức năng điều phối liên kết nội vùng. Thí dụ Hà Nội đang xây dựng chiến lược KTXH "vùng Hà Nội" bao quát cả vùng kinh tế động lực phía Bắc; tương tự là vai trò của TP Hồ Chí Minh đối với vùng kinh tế động lực phía Nam; vai trò của Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi với Dung Quất và Khánh Hòa với Nha Trang trong chuỗi hoặc dải kinh tế động lực miền Trung.

Ba là, xây dựng, thực hiện một số chương trình thúc đẩy liên kết nội vùng, liên vùng trên các phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa, và thúc đẩy phát triển nhanh ở một số vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, biên giới, hải đảo


thực sự khó khăn trên cơ sở rà soát và phối hợp với các chương trình, dự án hiện có. Hiện nay, ngoài các chương trình TB, TN, Tây Nam Bộ, vùng KTTĐ (hay động lực) Bắc, Trung, Nam còn có các chương trình khác liên quan nhiều đến sự phát triển các vùng, như : Chương trình 135, chương trình trồng 5 triệu ha rừng, Chương trình xây dựng biên giới, hải đảo, Chương trình bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số... Do đó, cần thiết phải rà soát, phối hợp các chương trình này vào thực hiện phương hướng liên kết nội vùng, liên vùng.

2.2. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC CHUNG

2.2.1.Quan điểm

Tiếp cận vùng lãnh thổ có vai trò cơ bản trong mọi nghiên cưu về địa lí nói chung và địa DCXH nói riêng. Đến lượt mình, nội dung địa lí DCXHđược coi như là các yếu tố trụ cột trong nghiên cứu các vùng lãnh thổ KTXH. Vùng lãnh thổ DCXH được xem xét trên ba khía cạnh : nền tảng tự nhiên - Địa lí tự nhiên / nền tảng dân tộc học - Địa lí các tộc người, trong đó vai trò chủ thể thuộc về cộng đồng các dân tộc cư trú trên địa bàn lãnh thổ nền tảng trình độ phát triển con người - Trình độ phát triển nhân văn lấy con người là chủ thể.

-Tính liên thông đồng bộ với các vùng trong nước, và ở chừng mực nhất định, phải tuân thủ với các qui định quốc tế. Trong điều kiện Việt Nam, các vùng DCXH cần được xem xét trên ba khía cạnh: Nền tảng tự thân của vùng; Các quan hệ liên vùng trong khuôn khổ quốc gia Việt Nam / Các mối liên hệ quốc tế - trong khuôn khổ hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó suy ra, các tiêu chí phát triển DCXH phải là đồng nhất làm thước đo chung cho mọi vùng có tính tới các nghiên cứu mơi nhất của các tổ chức quốc tế, trước hết là theo các tiêu chí chung của WB, IMF, UNESCO, UNDP…:


- Phải tôn trọng mặt bằng chung cả nước về các vấn đề DCXH. Mỗi vùng là bộ phận hợp thành chung của hệ thống vùng lãnh thổ dân cư xã hội cả nước. Mỗi vùng cụ thể không tách rời chiến lược phát triển đất nước thời kì CNH - HĐH và hội nhập quốc tế; từ dó suy ra, các tiêu chí cũng như các chỉ tiêu hợp thành phải cùng đơn vị đo, ít nhất phải cùng một nguồn dữ liệu cơ sở, tốt nhất dựa trên các số liệu trong Niên giám thống kê quốc gia của Tổng cục thống kê thuộc Bộ KH&ĐT.

- Coi trọng sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuối HS, vừa sức với trình độ hiểu biết của HS, đặc biệt là HS ở trình độ học lực trung bình, có tính tới một số học sinh ở các trương thành phố cũng như nhiều HS ở các vùng khó khăn chậm phát triển. Với tinh thần đó, vấn đề được làm nổi bật với HS THCS chủ yếu và trước hết là hệ thống các chỉ tiêu đo bằng số liệu cụ thể, có tính đại diện. Với HS các bậc THPT, CĐ và ĐH thì nội dung các tiêu chí chủ yếu là các đại lượng đo bằng các thang bậc cao và trừu tượng hơn, thể hiện bằng

% hoặc các cấp so sánh như kém phát triển, phát triển, rất phát triển v.v…

- Việc lựa chọn khách quan các tiêu chí và nội dung tiêu chí thường là phức tạp, đồi hỏi phải có nguồn tư liệu thống kê chính thống. Điều này rất khó thực hiện trong điều kiện thống kê của Việt Nam. Do vậy người GV phải biết lựa chon các chỉ tiêu chí tiêu biểu đồng thời phải đảm bảo rằng các chỉ số, chỉ tiêu với thước đo định lượng là có căn cứ và khả thi.

2.2.2. Các nguyên tắc cập nhật

Trong quá trình giảng dạy các bài về vùng, tuỳ từng bài, GV phải tôn trọng các nguyên tắc sau :

- Nguyên tắc thứ nhất là vừa phải đảm bảo những nội dung cơ bản của của bài học Địa lí, đồng thời tích hợp nội dung mới nhưng phải phù hợp với


bài học đồng thời phải đảm bảo tính hệ thống và đặc trưng của môn học, tránh mọi sự gượng ép ảnh hưởng đến việc lĩnh hội kiến thức của bộ môn.

- Nguyên tắc thứ hai là truyền thụ các nội dung mới về các tiêu chí cần tiến hành đồng thời một cách tự nhiên, không gò bó, gắn bó hữu cơ với nhau tạo nên một thể thống nhất trọn vẹn.

- Nguyên tắc thứ ba là việc đưa nội dung mới trong các tiêu chí phải được chọn lọc, tập trung; điều đó có nghĩa là không phải chương nào, bất kỳ bài nào cũng đưa vào để giảng dạy. Trong quá trình dạy học, GV phải chọn những tiêu chí phù hợp, không trùng lập, không quá tải, gây phản cảm với cái "cũ' tuy vẫn có giá trị lịch sử. Trong nghiều trường hợp, chính việc tích hợp các chỉ tiêu mới lại làm phức tạp thêm tình hình (!?). Ví dụ : Chỉ số thu nhập bình quân đầu người (GDP / người) những năm gần đây giảm mạnh do lạm phát và một số nguyên nhân khách quan khác. Ba nguyên tắc trên đây được coi là cơ bản trong cập nhật các chỉ tiêu mới trong các tiêu chí phát triển DCXH trong chương trình phổ thông. Có thể vận dụng các nguyên tắc và cách tiếp cận bằng hai cách : (1) tích hợp trong khi giảng đối với những bài có nội dung gần với nội dung của tài liệu dạy học, (2) liên hệ thực tế quê hương với nội dung tương ứng trong bài giảng. Những kiến thức mục III tại các bài học về vùng trong CT&SGK Địa lí 9 sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm địa lí, bổ xung và cụ thể hoá những kiến thức tiếp thu trên lớp gây cho học sinh sự hứng thú, lòng ham hiểu biết, muốn đóng góp sức mình vào việc làm cho địa phương giàu có, tiến bộ. Để gắn với kiến thức mục III với các bài học về ĐLĐP vào nội dung bài giảng GV phải xuất phát từ những kiến thức cụ thể của SGK và nội dung khoa học của bài giảng. Theo tinh thần đó, GV không những phải cập nhật mục III theo các vùng mà còn theo mục tương ứng trong ĐLĐP tỉnh / thành phố quê hương.


2.3. CẬP NHẬT NỘI DUNG THEO CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN DÂN CƯ, XÃ HỘI

2.3.1. Mật độ dân số (người / km2)

Mật độ dân số là số người trên đơn vị diện tích, thông thường có thể tính cho một vùng, một thành phố, một quốc gia, một đơn vị lãnh thổ hay toàn bộ thế giới. Dân số của Việt Nam hiện nay là 86,5 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, thuộc nhóm nước có dân số đông trên thế giới, mật độ trung bình là 227 người /km2, nhưng mật độ dân cư phân bố không đồng đều giữa

các vùng và giữa các khu vực.

UNDP đã tính toán rằng, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1km2, chỉ nên có từ 35 đến 40 người. Mật độ dân số nước ta năm 2008 lên tới gần 260 người/km2. Như vậy, ở Việt Nam, mật độ dân số đã gấp khoảng 6 - 7 lần "mật độ chuẩn". Trên thế giới, chỉ có 4 nước (ấn Độ, Nhật Bản, Băng-la-đét, Phi- líp-pin) có dân số nhiều hơn và mật độ dân số cao hơn nước ta. Có thể khẳng định rằng Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn. Tuy nhiên, dân số

nước ta vẫn tăng mạnh : trong 5 năm gần đây, mỗi năm dân số nước ta vẫn tăng thêm khoảng 1,1 triệu người, nghĩa là bằng dân số một tỉnh loại trung bình (nước ta có 39 tỉnh có dân số từ 1,1 triệu trở xuống).

Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, năm 2024, dân số nước ta sẽ vượt 100 triệu người, mật độ dân số sẽ lên tới 335 người/km2. Quy mô dân số rất lớn, mật độ dân số rất cao và vẫn đang tăng mạnh như trình bày ở trên, bên cạnh việc tạo ra thị trường tiêu dùng qui mô lớn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư, cũng góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.

Vì vậy, nâng cao chất lượng dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản (DS- SKSS) một nội dung cần ưu tiên hàng đầu trong chính sách dân số nói riêng


và chính sách kinh tế - xã hội nói chung ở nước ta. Cụ thể là cần có những chính sách, luật pháp điều chỉnh vấn đề sinh sản, đẩy mạnh tuyên truyền, bảo đảm dịch vụ, phương tiện có chất lượng cao nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của người dân. Coi kỹ thuật DS-SKSS là một trong những lĩnh vực kỹ thuật hàng đầu của nước ta. Các chính sách phát triển phải hướng mạnh đến tạo việc làm, đa dạng hóa ngành nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện tốt việc điều chỉnh quy mô dân số trên phạm vi toàn quốc cũng như từng vùng, miền, bao gồm DS- SKSS, di cư và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

Trong hơn 20 năm qua bức tranh về sự phân bố dân cư có sự thay đổi trong phạm vi cả nước dân số ở miền núi đã tăng lên rõ rệt, vùng đồng bằng có sự giảm nhẹ. Sự thay đổi trong bản đồ phân bố dân cư trong thời gian ngắn đã gắn với việc phân bố sản xuất và cân đối phân bố nguồn tài nguyên.

ĐBSH và DHMT là hai vùng mà nhà nước chủ trương giãn dân , giảm sức ép dân số, số người chuyển đến ít hơn số người chuyển đi. TN và ĐNB là hai địa bàn chủ yếu chuyển dân tới, đặc biệt để xây dựng các vùng kinh tế mới, các nhóm dân cư mới đến định cư đem theo những yếu tố mới cho cộng đồng làm cho nó trở nên năng động hơn nhưng đồng thời cũng đòi hỏi phải có thời gian mới trở nên ổn định đựơc.

Tuy nhiên trong thực tế đại bộ phận những người chuyển cư là nông dân sống dựa vào đất, nhưng bình quân đất nông nghiệp của nước ta không quá chênh lệch giữa các vùng. Do vậy việc di dân nông nghiệp giữa các vùng có xu hướng thu hẹp quy mô. Hướng phân bố lao động tại chỗ cùng với việc ổn định dân số tại chỗ sẽ ngày càng tăng ý nghĩa .

Mặt khác thay cho di dân nông nghiệp phải là di dân công nghiệp gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ, gắn với đô thị hóa trên các vùng của đất nước.


ĐBSH với diện tích 14.685,5 km2 mật độ dân số cao có quan hệ trực tiếp với nền nông nghiệp thâm canh lúa nước và cơ cấu nghành nghề đa dạng, sự hiện diện của các thành phố, trung tâm công nghiệp, các dịch vụ lớn cũng góp phần vào việc làm tăng mật độ dân số của đồng bằng.

ĐBSCL với diện tích 39.569,9 km2 là vựa lúa lớn nhất nước ta, phần lớn dân cư sinh sống ở khu vực tam giác châu và dọc theo 2 nhánh sông chính, những tỉnh có mật độ dân số cao như Tiền Giang (686 người/km2), Vĩnh Long (680 người/km2 ).

Hiện nay hệ thống đồng bằng duyên hải miền Trung nhỏ hẹp, tiềm năng nông nghiệp không lớn như hai đồng bằng trên, nên mật độ dân số không cao lắm.

Trong điều kiện diện tích tự nhiên và đất nông nghiệp ở các vùng đồng bằng có hạn, mật độ dân số cao đã rất khó khăn cho việc tạo đủ công ăn việc làm, đảm bảo nhu cầu cảu đời sống và phúc lợi xã hội. Với dân số lớn và tỉ suất tăng dân số vẫn tiếp tục diễn ra hằng năm ở mức trên 1% cho tới năm 2019, thì tình hình trên ngày càng trầm trọng hơn.

Theo kết quả dự báo dân số Việt Nam tới năm 2024 (dự án VIE/97/P14) thì đến năm 2019 vùng ĐBSH sẽ tăng thêm 2,91 triệu người và mật độ dân số sẽ tăng lên 1.408 người/km2, tương tự như vậy vùng ĐBSCL sẽ tăng lên 4,84 triệu người và mật dộ dân số sẽ là 554 người/km2 .

Vì vậy, ngay từ những năm 60 thế kỉ trước, nhà nước đã tiến hành việc di dân và phân bố lại dân cư - lao động theo hướng từ đồng bằng lên miền núi và trung du. Sau 1975, phong trào này tăng nhanh về số lượng và cường độ .

Nước ta có 3/4 diện tích là đồi núi, mặc dù khu vực này có nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế, nhìn chung địa hình chia cắt phức tạp, mật độ dân số càng thấp, tuy nhiên giữa các vùng trung du và miền núi mật độ có khác nhau.


Ở ĐB dân cư đông đúc hơn như Bắc Giang (390 người /km2), Phú Thọ (361 người/km2), Thái Nguyên (293 người /km2), tuy nhiên còn một số tỉnh như Bắc Kạn, Lào Cai, Hà Giang mật độ thấp hơn. Ở vùng núi TB, địa hình hiểm trở, dân cư phân tán, quá thưa thớt so với mật độ trung bình cả nước.

Ở vùng TN, có tài nguyên phong phú nhưng sự phân bố dân cư không tương xứng với nguồn tài nguyên. Kon Tum là tỉnh có mật độ dân số thấp nhất cả nước (32 người/km2).

2.3.2. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số (%)

Trong điều kiện đất chật người đông, kinh tế kém phát triển, thì dân số đông, tốc độ tăng dân số cao là một trong những nguyên nhân làm trầm trọng và căng thẳng thêm tình trạng đói nghèo, gây ra hàng loạt khó khăn trong phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó cũng là nguồn gốc của sự căng thẳng xã hội, gia đình, tính gay gắt của các vấn đề thất nghiệp, môi trường, giáo dục và y tế . Kết quả là chất lượng dân số bị suy giảm.

Để đo lường mức sinh, người ta dùng nhiều chỉ tiêu, thông thường nhất là "tỉ suất sinh thô". Tỉ suất này biểu thị số trẻ được sinh ra trong 1 năm, tính trung bình trên 1.000 dân. Tỉ suất sinh thô của Việt Nam năm 1957 là 44,

sau 50 năm đẩy mạnh KHHGĐ, tỉ suất này giảm xuống còn 17,2vào năm 2007. Tuy "tỉ suất sinh thô" giảm nhiều nhưng với số dân lớn nên số trẻ em sinh ra trong một năm hiện nay gần 1 triệu khoảng 1,5 triệu.

Số con trung bình của mỗi phụ nữ Việt Nam cũng không ngừng giảm xuống. Từ chỗ mỗi phụ nữ đến hết tuổi sinh đẻ trung bình có 6 đến 7 con, mấy năm nay gần đây, chỉ sinh 2 con tức là đã đạt "mức sinh thay thế". Việc mỗi phụ nữ chỉ sinh 2 con, chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến sức khỏe, học vấn, việc làm, thu nhập, địa vị xã hội của họ mà còn ảnh hưởng theo hướng tích cực tới việc nuôi, dạy con cái, hạnh phúc gia đình, sự phát

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 24/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí