Phổ Hplc Của 5-Fu (A) Và Hplc Của Hệ Pns-Aptes-Cooh-Ge


Hình 3 35 Phổ HPLC của 5 FU a và HPLC của hệ PNS APTES COOH GE mang 5 FU giải phóng 1

Hình 3.35. Phổ HPLC của 5-FU (a) và HPLC của hệ PNS-APTES-COOH-GE


mang 5-FU giải phóng (b)


3.3.5.3. Kết quả mang DOX của PNS-APTES-COOH-GE


Tương tự các thí nghiệm khảo sát mang thuốc DOX trên PNS đã biến tínhvà dựa vào phương pháp so màu bằng UV-Vis cùng với đường chuẩn của thuốc DOX đã xây dựng ở phần trên ta sẽ xác định được hai giá trị DLE và DLC lần lượt là 55,90 ± 1,72%10,06 ± 0,32 %.

3.3.5.4. Kết quả giải phóng DOX của PNS-APTES-COOH-GE


Sau những khoảng thời gian tiến hành thí nghiệm giải phóng trong hai môi trường khác nhau và tiến hành đo UV-VIS, quy đổi thành nồng độ ta thu được số liệu được biểu diễn trong đồ thị sau

Bảng 3.17. Số liệu giải phóng DOX của PNS-APTES-COOH-GE tại pH 7,4 và 4,5


Thời gian giải phóng (giờ)

Tỷ lệ giải phóng (%)

pH = 7,4

pH = 4,5

0

0,00

0,00

1

6,29

18,71

2

10,99

29,75

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.


3

13,37

41,34

6

15,33

44,46

12

16,71

59,65

24

20,55

60,35

48

22,17

63,15

72

25,59

66,27

84

26,15

66,35

96

26,57

67,51


Hình 3 36 Đồ thị biểu diễn khả năng giải phóng DOX của PNS APTES COOH GE Qua 2


Hình 3.36. Đồ thị biểu diễn khả năng giải phóng DOX của PNS-APTES-COOH-GE

Qua kết quả có thể thấy được thuốc DOX có thể giải phóng trong cả hai môi trường (pH=4,5 và pH=7,4). Tuy nhiên theo đồ thị có thể thấy trong môi trường đệm pH = 4,5 hiệu suất thuốc có thể giải phóng cao hơn nhiều so với môi trường pH = 7,4 ở những khoảng thời gian tương đương nhau. Ngoài ra theo đồ thị có ta có thể thấy ở cả hai môi trường lượng thuốc giải phóng được có sự tăng nhanh và mạnh trong khoảng 20 giờ đầu, sau đó lượng thuốc có thể giải phóng không còn nhiều nữa nên sau 20 giờ đầu đồ thị có xu hướng gần như là một đường thẳng (đặc biệt là trong khoảng 72-96 giờ). Trong môi trường pH 7,4 hiệu suất giải phóng thuốc tối đa có thể đạt khoảng 20% trong khi đó ở cùng một khoảng thời gian tương tự hiệu suất tối đa có thể giải phóng trong môi trường pH 4,5 là 60-65%, đây là một kết quả rất cao và khả quan. Điều này cũng là một trong những tiêu chí mong muốn của thí nghiệm .


3.3.6. Kết quả mang và giải phóng PNS-APTES-Anhydrid Succinic- Gelatin-mPEG (gọi tắt là PNS-GEL-mPEG là chất mang thuốc 5)

3.3.6.1. Khảo sát khả năng mang 5-FU của hệ PNS-GEL-mPEG


Dùng phương pháp đo HPLC lượng thuốc tự do được sau 1 giờ, 3 giờ và 6 giờ, ta có kết quả như sau:

Bảng 3.18. Số liệu biểu thị khối lượng thuốc 5-FU được mang trong 60 mg PNS-GEL- mPEG


Mẫu

Lượng thuốc tự do

(mg)

Lượng thuốc được mang

(mg)

PNS-GEL-mPEG

5,95

9,05


Từ dữ liệu HPLC ta tính được hiệu suất tải thuốc và khả năng mang thuốc 5-FU của chất mang PNS-GEL-mPEGlà DLE = 63,33 ± 1,12% và DLC = 13,10± 0,32%.

3.3.6.2. Khảo sát khả năng giải phóng 5-FU của hệ PNS-GEL-mPEG

Sau khi hệ PNS-APTES-Ge-mPEG mang 5-FU, ta tiến hành giải phóng trong thời gian 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ, 24 giờ và 48 giờ với 2 môi trường dung dịch đệm phosphat (PBS)(pH 7,4) và đệm acetat (pH 4,5). Kết quả HPLC cho thấy lượng thuốc giải phóng ra bằng 0 (mg). Vậy 5-FU đã bị giữ chặt trong PNS-APTES-Anhydrid Succinic-Ge-mPEG, không thể giải phóng ra trong 2 môi trường đệm.


Hình 3 37 Phổ HPLC của 5 FU a và HPLC của hệ PNS GEL mPEG mang 5 FU giải phóng b 3


Hình 3.37. Phổ HPLC của 5-FU (a) và HPLC của hệ PNS-GEL-mPEG mang 5-FU giải phóng (b)


Nhận xét

So với hệ PNS-GPTMS-CS-mPEG thì hệ PNS-GEL-mPEG mang thuốc 5-FU có hiệu quả mang cũng khá tốt nhờ tương tác tĩnh điện giữa thuốc và chất mang đã biến tính tuy nhiên khi giải phóng 5-FU thì thuốc cũng bị giữ chặt trong chất mang PNS-GEL-mPEG, không thể giải phóng thuốc 5-FU trong 2 môi trường trung tính và acid.

3.3.6.3. Kết quả mang thuốc DOX của PNS-GEL-mPEG


Xác định lượng thuốc chưa mang được, ta có thể dễ dàng phân tích được hiệu suất mang thuốc và khả năng mang thuốc DOX của hệ PNS-APTES- GEL-mPEG bằng cách đo UV vis lượng thuốc thừa chưa mang được, ta có kết quả như sau:

Hiệu suất mang thuốc DLE = 85,88 ± 1,15%

Khả năng chứa thuốc của chất mang DLC = 17,64 ± 0,02%

Nhận xét

So với hệ PNS chưa biến tính và các hệ PNS biến tính trước đó thì đây là hệ có hiệu suất mang thuốc (DLE = 85,88 ± 1,15 %) và khả năng chứa thuốc của chất mang (DLC = 17,64

± 0,02%) cao nhất. Với hiệu suất cao là nhờ sự hình thành liên kết imine giữa nhóm amino của thuốc DOX và chất mang PNS đã biến tính [91, 92]. Chẳng những nhờ liên kết imine cho hiệu quả mang thuốc DOX khá cao mà còn hứa hẹn khả năng chọn lọc giải phóng DOX tuyệt vời [91].

3.3.6.4. Khảo sát khả năng giải phóng DOX của hệ PNS-GEL-mPEG


Chất mang PNS-APTES-Anhydrid Succinic-GEL-mPEG được khảo sát giải phóng DOX trong 96 giờ và trong môi trường pH 7,4 . Nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát tương tự như thí nghiệm ở pH 4,5.

Bảng 3.19. Khả năng giải phóng DOX của hệ PNS- GEL-mPEG ở pH 7,4 và 4,5


Thời gian giải phóng (giờ)

Tỷ lệ giải phóng (%)

pH = 7,4

pH = 4,5

0

0

0

1

7,30

22,77

2

12,40

35,29

3

17,00

47,70

6

22,40

53,50


12

27,90

65,80

24

30,06

70,06

36

32,30

74,30

48

33,20

75,03

72

33,30

75,07

84

33,30

75,09

96

33,30

75,09


Hình 3 38 So sánh giải phóng DOX của PNS và PNS GEL mPEG tại pH 7 4 và 4 5 Đối với 4

Hình 3.38. So sánh giải phóng DOX của PNS và PNS-GEL-mPEG tại pH 7,4 và 4,5 Đối với môi trường pH 7,4:

- Trong 6 giờ đầu, hệ giải phóng thuốc với tốc độ chậm, lượng thuốc được hệ giải phóng không nhiều chỉ có 22,40% so với lượng thuốc được mang.

- Trong 6 giờ tiếp theo (thời điểm 12 giờ), lượng thuốc DOX được hệ giải phóng là 27,90% lượng thuốc được mang.

- Tại thời điểm 36 giờ, tổng lượng thuốc DOX được hệ giải phóng là 32,30 % lượng thuốc được mang.

- Trong khoảng 12 giờ đến 48 giờ, hệ có dấu hiệu giải phóng thuốc ít dần vì chỉ giải phóng thêm 5,30%.

- Tại thời điểm 72 giờ, tổng lượng thuốc giải phóng ra là 33,30% lượng thuốc được mang. Nhận thấy rất rõ, so với các thời điểm trước thì quá trình giải phóng thuốc bắt đầu yếu dần đi. Kết quả giải phóng DOX như thế đạt mục tiêu là hệ biến tính mang thuốc giải phóng chậm tại môi trường 7,4

Đối với môi trường pH 4,5:


Khảo sát thời gian 6 giờ đầu, hệ giải phóng thuốc được 22,77%, lượng thuốc được hệ pH 4,5 giải phóng khá nhiều so với hệ pH 7,4 chênh lệch 31,10 %.

- Trong một giờ đầu tiên nghiên cứu tiến hành lấy mẫu 3 lần lượng thuốc trung bình giải phóng là 22,77 %.

- Trong giờ thứ 2 nghiên cứu cũng tiến hành lấy mẫu 3 lần lượng thuốc trung bình giải phóng có tăng hơn so với 1 giờ đầu là 35,90%. Tương tự, ở giờ thứ 3 lượng thuốc giải phóng là 44,70%. Tổng lượng thuốc hệ giải phóng trong 6 giờ đầu tương đối nhiều khoảng 53,50 % lượng thuốc được mang trong hệ.

- Tại thời điểm 6 giờ tiếp theo tức là từ 6 giờ đến 12 giờ, nghiên cứu cũng tiến hành lấy mẫu 3 lần với lượng thuốc được hệ giải phóng là 65,80 % lượng thuốc được mang. Tại thời điểm này lượng thuốc được hệ giải phóng khá tốt

- Tại 36 giờ tiếp theo, tổng lượng thuốc được hệ giải phóng là 74,30% lượng thuốc được mang. Như vậy trong khoảng 12 giờ đến 48 giờ, hệ có dấu hiệu giải phóng thuốc tăng lên.

- Tại thời điểm 72 giờ, tính tới tại thời điểm này thì tổng lượng thuốc giải phóng là 75,07 % lượng thuốc được mang. Nhận thấy rất rõ, so với các thời điểm trước thì quá trình giải phóng bắt đầu tăng đều vừa phải cao nhất ở 96 giờ là 75,09%.

- Từ số liệu cho thấy, ở môi trường pH 7,4 hệ PNS-APTES-GEL-mPEG (hệ được biến tính bởi Gelatin-mPEG) giải phóng thuốc DOX yếu hơn hệ đó ở pH 4,5.Vậy phù hợp với tiêu chí hạn chế giải phóng thuốc trong môi trường trung tính pH 7,4 (tế bào lành) và giải phóng khá cao trong môi trường acid 4,5 (môi trường gần với tế bào ung thư).

Bên cạnh đó chúng tôi cũng so sánh khả năng giải phóng DOX của hệ PNS chưa biến tính và hệ PNS- GEL-mPEG tại pH 7,4 để thấy rõ hơn giá trị của việc biến tính.

Bảng 3.20. So sánh khả năng giải phóng DOX của hệ PNS và PNS- GEL-mPEG ở pH 7,4


Thời gian giải phóng (giờ)

Tỷ lệ giải phóng (%)

pH = 7,4

pH = 4,5

0

0

0

1

7,30

8,97

2

12,40

-

3

17,00

42,77

6

22,40

58,72


12

27,90

66,50

24

30,06

74,06

36

32,30

79,30

48

33,20

83,73

60

-

84,02

72

33,30

75,09

84

33,30

75,09

96

33,30

75,09


Hình 3 39 Đồ thị so sánh khả năng giải phóng DOX của PNS và PNS GEL mPEG tại pH 5


Hình 3.39. Đồ thị so sánh khả năng giải phóng DOX của PNS và PNS-GEL-mPEG tại

pH 7,4

Nhận xét

Qua đồ thị so sánh khả năng giải phóng DOX của chất mang PNS chưa biến tính và chất mang PNS-APTES-GEL-mPEG ta nhận thấy tại môi trường pH 7,4 (môi trường tế bào lành) hệ nano silica xốp chưa biến tính (PNS) giải phóng DOX khá nhiều không đạt mục tiêu là chất mang thuốc phải bảo vệ thuốc lưu thông trong hệ tuần hoàn máu đến đúng mục tiêu là tế bào ung thư (pH khoảng 4÷5) mới được giải phóng. Từ đó cho thấy việc biến tính PNS là rất có ý nghĩa.

3.3.7. Kết quả mang và giải phóng của hệ PNS@CS-PEG


3.3.7.1. Kết quả mang thuốc DOX của PNS@CS-PEG


Sau khi đo UV vis lượng thuốc tự do chưa mang được, ta có kết quả như sau: Hiệu suất tải thuốc (DLE): 57,81 ± 1,45%

Khả năng mang thuốc của hạt (DLC): 11,79± 0,29 (%)


Nhận xét


Sau khi biến tính bằng CS-PEG ta nhận thấy hiệu quả mang thuốc tăng lên so với hệ PNS chưa biến tính nhưng vẫn tuy nhiên vẫn thấp hơn so hệ PNS-GEL-mPEG đã thực hiện trước đó. Điều đó có thể lý giải ngoài ưu diểm tạo liên kết imine kép với DOX gelatin còn có cấu trúc mạch dài có thể bao thuốc bên trong.

3.3.7.2. Kết quả giải phóng DOX của PNS@CS-PEG


Sau khi khảo sát khả năng giải phóng DOX của chất mang PNS@CS-PEG trong hai môi trường trung tính và acid ta có bảng số liệu như sau:

Bảng 3.21. Dữ liệu cho thấy khả năng giải phóng thuốc DOX của hệ PNS@CS-PEG ở pH=7,4 và pH=4,5


Thời gian giải phóng (giờ)

Tỷ lệ giải phóng thuốc (%)

pH = 7,4

pH = 4,5

0

0

0

1

19,92

37,53

3

31,22

55,69

6

35,56

65,29

12

38,59

69,95

24

39,07

72,42

30

39,66

74,06

36

39,79

74,33

48

40,09

74,21

72

41,47

75,57

96

42,28

76,73


Hình 3 40 So sánh giải phóng DOX củaPNS CS PEG tại pH 7 4 và 4 5 6

Hình 3.40. So sánh giải phóng DOX củaPNS@CS-PEG tại pH 7,4 và 4,5

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 30/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí