Bảng 1.1: Tổng quan về chi phí môi trường của EMA
Không khí/ khí hậu | Nước thải | Nước | Đất/ nước ngầm | Tiếng ồn/ độ rung | Đa dạng sinh học/ cảnh quan | Bức xạ | Chi phí môi trường khác | Tổng | |
1.Nước và xử lý chất thải | |||||||||
2.Công tác phòng chống và quản lý môi trường | |||||||||
3.Chi phí mua nguyên liệu của đầu ra phi sản phẩm | |||||||||
4.Chi phí xử lý đầu ra phi sản phẩm | |||||||||
Tổng chi phí môi trường | |||||||||
5.Doanh thu môi trường |
Có thể bạn quan tâm!
- Kế hoạch quản lý môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và bài học Việt Nam - 1
- Kế hoạch quản lý môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và bài học Việt Nam - 2
- Tích Hợp Ema Với Các Công Cụ Quản Lý Môi Trường Khác [12]
- Tác Động Môi Trường Và Hiệu Quả Sinh Thái Của Nippon Oil
- Các Yếu Tố Sinh Thái Hiệu Quả Cho Máy Quét Của Fujitsu
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
(Nguồn: C. Jasch, Environmental and Material Flow Cost Accounting: Principles and Procedures, Eco-Efficiency in Industry and Science 25)
Quy trình EMA là để tính toán và báo cáo chi phí hoặc định mức cho mỗi hạng mục phí tổn theo 8 phân loại đó. Nếu không có hoạt động hoặc bảo trì nào liên quan đến 1 phân loại nào thì loại phân loại đó ra khỏi bảng phân tích. Phương pháp nghiên cứu chi tiết về chi phí (hoặc doanh thu) cho mỗi loại này được cung cấp trong báo cáo của UNDSD [34].
Kế hoạch báo cáo EMA của UNDSD chia làm bốn loại chi phí liên quan đến môi trường và một loại doanh thu liên quan đến môi trường như sau:
3.1. Hạng mục 1: Chi phí xử lý chất thải.
Hạng mục này gồm nhiều chi phí theo truyền thống gọi là “chi phí cuối đường ống”. UNDSD đề xuất rằng sự hợp nhất và phân bố của các chi phí nằm trong 7 mục sau [34]:
- Khấu hao thiết bị: Bao gồm các thiết bị xử lý cuối đường ống để giảm thiểu tác động môi trường của chất thải và khí thải. Các thiết bị xử lý như là: các container chứa rác, các nhà máy xử lý nước thải và các phế thải trong công nghệ sử dụng đường ống, thiết bị xử lý chất thải (tách chất thải rắn, vận chuyển và thiết bị nén), thiết bị xử lý rác tại chỗ, thiết bị xử lý chất thải và khí thải (hệ thống xử lý nước thải, khử lưu huỳnh, loại bỏ NOx, thiết bị giảm tiếng ồn). Khi tính khấu hao thiết bị này cần phải xem xét xem thiết bị có kết hợp chặt chẽ với thiết bị sản xuất không. Nếu thiết bị này riêng biệt thì việc tính khấu hao dựa trên chi phí đầu tư ban đầu, nếu tích hợp với thiết bị sản xuất thì cần phải tính toán tỷ lệ phần trăm chi phí đầu tư có liên quan đến thiết bị bảo vệ môi trường.
- Bảo trì và vận hành các tài nguyên và dịch vụ: Những vật liệu này được xác định sau khi chỉ rõ được những phương tiện xử lý môi trường liên quan đến khấu hao thiết bị. Chi phí hàng năm cho những vật liệu vận hành bảo dưỡng kiểm tra và các chi phí khác để vận hành thiết bị xử lý được đưa vào tài khỏan này.
- Chi phí liên quan đến nhân lực: Tiểu khoản này bao gồm tất cả các chi phí nhân công cho thời gian xử lý rác thải và khí thải bằng tay trong các hoạt động đầu tư, bảo dưỡng (bảo trì nhà máy xử lý nước thải), xử lý chất thải (phân biệt chất thải, thu thập, kiểm tra, vận chuyển nội bộ), xử lý chất thải và khí thải ( hoạt động của nhà máy xử lý nước thải và lò đốt), quản lý bãi chôn lấp tại chỗ, việc tuân thủ quy định (theo dõi, ghi lưu giữ, kiểm tra, thông báo và đào tạo). Chi phí này được trả cho toàn bộ các công nhân làm cả ngày để thu nhặt và xử lý rác thải giải quyết một cách trực tiếp, lương của bộ phận quản lý, giám sát các hoạt động xử lý rác thải công việc cũng như được bao gồm trong tiểu khoản này, căn cứ vào ước tính.
- Tiền công, tiền thưởng, thuế: Tài khoản này bao gồm tất cả các chi phí đổ rác và vệ sinh cống rãnh và các chi phí cấp phép, thuế môi trường (nếu có).
- Tiền phạt: Tài khoản này bao gồm các khoản nộp phạt do không tuân thủ quy định.
- Bảo hiểm cho các rủi ro môi trường: Tiểu khoản này bao gồm số tiền đóng bảo hiểm cho các rủi ro liên quan đến môi trường, bảo hiểm đến việc tạo ra ngẫu nhiên các vật liệu nguy hại. Các chi phí hàng năm cho bảo hiểm được ghi trong
tài khoản lợi nhuận và thiệt hại. Nhưng nếu các khoản bảo hiểm được thanh toán thì các công ty phải thường xuyên tham khảo các dự luật. Vì vậy, ngay cả những bảo hiểm rủi ro, có thể vẫn còn thiệt hại cho công ty. Loại chi phí này thích hợp cho các ngành công nghiệp cụ thể, chủ yếu liên quan đến vận chuyển hàng nguy hiểm hoặc làm tăng rủi ro của một số hiệu quả năng lượng.
- Các khoản dự phòng cho các chi phí dọn vệ sinh và sửa chữa, đền bù: Mục đích của các khoản dự phòng là tính toán và dự trù trước những chi phí phát sinh trong các hoạt động của công ty có liên quan đến môi trường (ví dụ tràn dầu rò rỉ hóa chất).
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) đã đề xướng việc thực hiện kế toán chi phí đầy đủ (Full Cost Accounting) (FCA) trong đó FCA là sự phân phối của tất cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp tới sản phẩm hoặc dòng sản phẩm [36]. EPA chỉ ra một trường hợp làm ví dụ [5]: việc tính toán lại chi phí trong các hạng mục dịch vụ phù hợp ở Sở công chính của Columbia, Missouri đều cao hơn trong tổng chi phí chung. Chi phí đầy đủ của tái chế, ủ phân, rác sinh hoạt, rác từ hoạt động kinh doanh thương mại, rác được thu gọn, rác từ các trường đại học và bãi đổ rác hỗn hợp lần lượt là 29%, 17%, 28%, 22%, 19%, 53% và 124% tương ứng cao hơn tính trước đây [38]. Canon đã làm theo hướng dẫn về kế toán môi trường của Bộ Môi trường Nhật [23]. Hướng dẫn gồm các hạng mục chi phí: khu vực thương mại; phân tích đầu vào/ đầu ra; quản trị, R&D, hoạt động xã hội, tái hòa giải và các chi phí khác. Canon đưa ra con số 17.1 tỉ yên chi phí môi trường trong năm 2003 và 23 tỉ yên tiết kiệm [38],
5.9 tỉ yên chênh lệch là bằng chứng cho hiệu quả tích cực về kinh tế và môi trường. Mục khó khăn nhất trong hạng mục này là bảo hiểm rủi ro môi trường, mục mà sẽ đảm bảo cho việc đầu tư trong tương lai.
3.2. Hạng mục 2: ngăn ngừa và quản lý môi trường
Hạng mục chi phí này bao hàm việc ngăn chặn các tác động môi trường và quản lý các chương trình môi trường. Loại chi phí này gồm:
- Các dịch vụ thuê ngoài để quản lý môi trường: Chi phí này bao gồm việc chi trả cho các dịch vụ tư vấn môi trường, đào tạo, kiểm tra, kiểm toán và truyền thông tin.
- Nhân sự cho các hoạt động quản lý môi trường nói chung: Chi bồi dưỡng cho người lao động làm việc trong các chương trình môi trường như các hoạt động đào tạo, kiểm toán, thực hiện và tuyên truyền.
- Nghiên cứu và phát triển: Cả các hợp đồng thuê ngoài và trả thù lao nhân công trong công ty tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển liên quan đến môi trường được tính toán tách bạch. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển được tăng cường nếu có sự cải thiện về môi trường và sẽ được ghi nhận vào các báo cáo tại khoản mục này.
- Chi phí bổ sung cho công nghệ làm sạch: Là các khoản đầu tư bổ sung để lắp đặt công nghệ làm sạch cho phép quá trình sản xuất hiệu quả hơn, làm giảm hoặc là ngăn ngừa khí thải vào môi trường. Bao gồm cả chi phí khấu hao thiết bị liên quan đến môi trường, vật liệu hoạt động, nước và năng lượng liên quan đến công nghệ làm sạch mới.
- Các chi phí quản lý môi trường khác: Các chi phí khác liên quan đến quản lý môi trường được ghi nhận ở đây bao gồm: chi phí cho các hoạt động môi trường như phối hợp tài trợ cho hoạt động môi trường và phát hành các báo cáo về môi trường, đóng góp sáng kiến môi trường hoặc bảo tồn thiên nhiên trong chính sách của công ty hay tổ chức xã hội trách nhiệm. Các ví dụ về phí liên quan đến phòng chống là: lệ phí đăng ký ghi nhãn theo đề án môi trường, lệ phí cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn môi trường.
Mặc dù là một hạng mục độc lập nhưng chi phí ngăn ngừa và quản lý môi trường thường không được hiểu đúng vì chúng thường bị kết hợp với chi phí xử lý chất thải và rác thải (hạng mục 1). Ví dụ, tại trung tâm y học Dartmouth Hitchcock có 400 giường bệnh ở Mỹ, cho thấy rằng tất cả các chi phí loại bỏ rác thải [22] được phân cho bộ phận chức năng Môi trường, Sức khỏe và An toàn (E, H&S) mà không đưa đến bộ phận đã thải ra các chất thải đó. Trách nhiệm loại bỏ rác thải y tế một cách an toàn và chính xác được giao cho E, H&S để đảm bảo rằng các bộ phận thải ra rác thải không xử lý rác thải sai quy cách nhằm giảm chi phí [22]. Trách nhiệm quản lý môi trường do đó thường xung đột với trách nhiệm quản lý tài chính ở khâu
thực hiện nếu các bộ phận chức năng không biết rõ phí tổn cho chất thải và khí thải của họ.
3.3. Hạng mục 3: giá trị thu mua vật liệu của chất thải và khí thải
Tất cả các phế thải không phải là sản phẩm được đánh giá thông qua cân đối dòng nguyên vật liệu và các nguyên vật liệu phế thải được tính theo giá trị thu mua. Quan niệm rằng đầu vào của một sản phẩm thương mại hoặc sẽ thân thiện với môi trường hoặc trở thành rác thải không hiệu quả là một nhận thức quan trọng để thách thức các quan niệm cổ điển về mức độ chấp nhận được của các sản phẩm đem bán và mức độ không hiệu quả cho phép. Tài khoản chi phí này có các tiểu khoản như sau:
- Nguyên vật liệu thô: Loại chi phí này bao gồm tất cả các loại nguyên vật liệu thô đưa vào quá trình sản xuất nhưng không trở thành thành phẩm mà được loại ra dưới dạng chất thải rắn, nước thải hoặc khí thải.
- Bao bì: Giá trị thu mua của các vật liệu bao bì phế thải được đưa vào loại chi phí này.
- Nguyên vật liệu phụ: Các nguyên vật liệu phụ là một phần của sản phẩm nhưng lại không phải là thành phần chính. Loại chi phí này đề cập đến các nguyên vật liệu phụ được thải ra trong quá trình sản xuất.
- Nguyên liệu hoạt động: Loại chi phí này bao gồm tất cả các vật liệu sử dụng trong hoạt động của công ty (rác thải văn phòng) nhưng không phải là thành phần của sản phẩm. Ví dụ như hóa học, dung môi, chất tẩy rửa và các loại khác đi cùng với phế thải.
- Năng lượng: Bao gồm tỷ lệ của quá trình chuyển đổi năng lượng không có ích trong hoạt động sản xuất.
- Nước: Loại chi phí này tổng hợp tất cả các nguyên vật liệu khác, chuyển đến thiết bị xử lý nước thải bao gồm chi phí mua nguồn nước tại đó.
Nghiên cứu của EPA [38] thấy rằng kết quả của chi phí vật liệu lãng phí trong việc mạ điện (vật liệu phủ, chất xúc tác, chất phụ gia, chất làm sạch và nước) là các chi phí ẩn của chất thải vật liệu có thể chia thành 2 nguồn – chênh lệch giữa lượng vật liệu phủ thu mua và lượng kim loại tiêu tốn, và sự chênh lệch giữa lượng kim loại tiêu tốn và lượng thực tế cần để mạ sản phẩm [37]
3.4. Hạng mục 4: chi phí xử lý phế thải
Hạng mục này chỉ có ở những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất và khai thác tài nguyên. Gồm các tiểu khoản:
Sản phẩm và sản phẩm phụ: sản phẩm bao gồm tất cả các sản phẩm vật lý và bao bì. Sản phẩm phụ là sản phẩm ngẫu nhiên được sản xuất trong khi sản xuất các sản phẩm chính.
Đầu ra phi sản phẩm bao gồm: chất thải, nước thải, khí thải….Bất kỳ đầu ra đó không phải là sản phẩm được gọi là đầu ra phi sản phẩm (NPO). Các chất thải ra ở dạng rắn, nước hoặc khí.
Chi phí này bao gồm cả chi phí lao động lãng phí, khấu hao và các nguyên vật liệu hoạt động tiêu hao trong số lượng nguyên vật liệu có dùng trong sản xuất nhưng không tạo ra thành phẩm và trở thành phế thải.
Nghiên cứu về công ty GH Michell&Sons ở Australia là kinh nghiệm quý giá [24]. Michell sinh lợi hơn 500 triệu $ Úc hàng năm, sản xuất từ 30 tới 35 triệu kg sản phẩm len tại nhiều nhà máy trên toàn Australia hàng năm. Chất lượng len kém hơn ở Michell phụ thuộc vào quy trình carbon hóa len, quy trình này nhằm loại bỏ chất bẩn, chất xơ và các muối tan. Đầu vào của quy trình là nước, thuốc tẩy, axit, natri…nhân công và máy móc. Sản phẩm phụ là mỡ lông cừu, bùn, nước thải và sợi hỏng. Nghiên cứu phát hiện ra rằng việc tiêu thụ “len bẩn” được trợ giá bởi “len sạch”. Tuy nhiên không có số lượng len bẩn được thu hồi liên quan đến các chi phí chế biến lông cừu. Vì giá mà người kinh doanh len trả phụ thuộc vào chi phí quy trình nên quyết định thu mua và xử lý len là rất quan trọng đối với khâu cuối cùng. “Len bẩn”phải chịu nhiều chi phí quy trình hơn. Tuy nhiên, không chi phí nào liên quan đến số lượng len thu hồi từ mỗi kiện len đã được xử lý. Nếu những chi phí này được tính toán lại để thể hiện giá thu hồi thì số dư đã được lên kế hoạch có thể sẽ thay đổi và sẽ ảnh hưởng đến quyết định kinh doanh.
3.5. Hạng mục 5: doanh thu môi trường
Hạng mục này bao gồm các thu nhập thực tế từ vật liệu tái chế, các khoản trợ cấp và các giải thưởng bằng tiền mặt cho các hoạt động môi trường.
- Tiền trợ cấp và tiền thưởng: Loại thu nhập này bao gồm tiền trợ cấp, tiền từ việc được miễn thuế, tiền thưởng và các loại thu nhập khác nhận được nhờ vào việc đạt được các tiêu chuẩn của hoạt động môi trường.
- Các khoản thu nhập khác: Thu nhập từ việc bán các sản phẩm tái chế và sự dôi dư trong việc xử lý chất thải nằm trong loại chi phí này.
Các công ty được mong đợi sẽ báo cáo doanh thu từ việc tái chế nhưng đây là hạng mục khó xác định. Doanh thu thấp có thể là lí do cho sự im lặng. Ví dụ, Tellus báo cáo việc tận dụng tái chế ở một loại trang thiết bị sinh lợi nhuận là 500$ từ giấy hỗn hợp và 62$ từ nhựa và thủy tinh. Khi so sánh với tổng chi phí tiết kiệm là 23.859$ từ kế hoạch, lợi nhuận chỉ là 2.4% của số tiền tiết kiệm được, phần lớn của số tiền tiết kiệm đó là từ việc giảm thiểu chi phí xử lý chất thải (hạng mục 1). Kết quả này có thể gợi ra suy nghĩ rằng tái chế thường dẫn tới tiết kiệm chi phí hơn là sinh lợi. Trong khi tiết kiệm chi phí có vẻ giống với lợi nhuận, trọng tâm của hạng mục doanh thu môi trường là ở các nguồn lợi nhuận ngoài. Ví dụ cho doanh thu môi trường là việc tiêu thụ các sản phẩm phụ. Theo Deegan quy trình carbon hóa len tạo ra len chất lượng kém ở Michell dẫn tới một lượng lớn các phụ phẩm như là len dính dầu và các sợi dọc bị đứt. Michell có thể xử lý các phụ phẩm này như chất thải và trả tiền để chôn chúng hoặc họ có thể bán các phụ phẩm này đi. Len dính dầu bán được khoảng 2$Úc/kg và có nhiều công dụng. Sợi len dọc bị đứt được bán như sản phẩm len ở mức độ thấp hơn cho nhiều quy trình và các sản phẩm khác.
4. Tích hợp Kế toán Quản lý Môi trường với hiệu quả sinh thái
Nhìn chung hiệu quả đánh giá mối liên hệ giữa các yếu tố đầu ra và đầu vào đối với một quy trình. Với đầu vào cho sẵn, đầu ra càng cao, đầu vào càng thấp, thì hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đó càng hoạt động hiệu quả.
Hiệu quả là một khái niệm đa chiều. Các yếu tố đầu ra và đầu vào của đơn vị được đánh giá sẽ có thể khác nhau. Nếu đầu ra và đầu vào được nhìn dưới góc độ thuật ngữ tài chính, thì hiệu quả thường chỉ khả năng sinh lời hoặc hiệu suất tài chính. Những tiêu chuẩn đánh giá khả năng sinh lời tiêu biểu bao gồm tỷ suất sinh lời trên doanh thu, tỷ suất sinh lời của vốn cổ phần trên tài sản thuế…. Hiệu quả kinh tế chỉ ra hoạt động xã hội trong dài hạn có thể bền vững hay không và trong
bao lâu. Về kỹ thuật, thường tập trung vào các tiêu chuẩn đánh giá hữu hình chẳng hạn như kg….Tiêu chuẩn đánh giá năng suất gồm: sản lượng mỗi giờ, sản lượng trên mỗi lao động. Chênh lệch giữa tỷ suất hiệu quả tốt nhất có thể và tỷ suất hiệu quả thực tế đạt được là Hiệu suất-X. Khái niệm Hiệu suất X rất hữu ích. Nó cho thấy trên thực tế các tổ chức tối thiểu hóa chi phí (sử dụng công nghệ mới nhất) hơn là bắt chước đối thủ của họ trong việc đưa ra các chính sách khác nhau và tuân thủ các tiêu chuẩn ngành và các mục tiêu. Điều này xảy ra khi các tổ chức này hoạt động không hiệu quả. Hiệu suất X tính toán phạm vi hiệu suất kỹ thuật thấp. Bởi giống như tỷ suất giữa thông số đầu ra và đầu vào, hiệu suất không phụ thuộc vào thông số tài chính hoặc kỹ thuật.
Khi hiệu suất là tỷ số giữa đầu ra và đầu vào thì hiệu quả sinh thái có thể coi là mối quan hệ giữa tiêu chuẩn đánh giá đầu vào và tiêu chuẩn đánh giá đầu ra tác động môi trường [23]:
Hiệu quả sinh thái = Đầu ra/ Tác động gia tăng của môi trường
Tác động gia tăng của môi trường là tiêu chuẩn đánh giá tất cả những ảnh hưởng môi trường đã được đánh giá theo tác động môi trường tương ứng của chúng [22].
Cũng có thể hiểu hiệu quả sinh thái là tỉ số giữa giá trị gia tăng và tác động môi trường gia tăng, hay là tỉ số giữa một chỉ số hoạt động kinh tế và một chỉ số hoạt động môi trường sinh thái.
Sau đây là những chỉ số hiệu quả sinh thái - thước đo hiệu quả sinh thái:
- Lượng chất thải / doanh thu (Kg/$)
- Giảm thiểu chất thải/ chi phí đầu tư công nghệ mới (m3/$)
- Lượng nguyên vật liệu (quá trình sản xuất)/ Nhu cầu năng lượng (quá trình sản xuất) (kg/$)
- Lượng phát thải CO2/ Lợi nhuận trước thuế (kg/ $)
- Giá trị hiện tại thuần (NPV)/ Tiềm năng biến đổi khí hậu toàn cầu ($/ kg CO2 – eq)
- Doanh thu sản phẩm X/ Tổng chất thải sản phẩm X ( $/ tấn)
- Tăng trưởng biên/ Tiềm năng chất thải độc hại ($/ HTP)