nổi, em vào rủ anh đi chơi nói chuyện cho vui”. Nhưng đằng sau những hành vi nổi loạn mà nhiều khi bị người đời cho là điên ấy là một tâm hồn cô chích “cần một người hiểu mình” để chia sẻ, để hứng nhận “luồng năng lượng kết tinh từ chữ nghĩa và cảm thụ cuộc sống” tràn ra, phát tiết ra từ thẳm sâu trong một con người “không chịu nổi cuộc sống phẳng lặng bình thường”, “một tâm hồn chứa đầy giông bão”.
Người đọc cũng không thể quên Nhi (Ngôi nhà nhỏ bên hồ) một tâm hồn trong sáng, nhân hậu được tắm mát bằng hương thơm từ khu vườn văn học diệu kỳ và đến lượt mình, cô bé lại tác động lên tâm hồn người khác, giúp họ hiểu lẽ đời và thêm tin vào cuộc sống.
Người đọc sẽ mãi còn ám ảnh về Diễm (Cô gái xuống ga Vĩnh Yên), “một con điếm có tâm hồn, một con điếm biết yêu văn chương nghệ thuật .... một con điếm quá chai nhàm với thân phận mua bán, khát thèm nếm thử cảm giác của tình yêu sạch sẽ sáng trong” đã quyết định thực hiện cuộc phiêu lưu tìm kiếm một tình yêu trong sáng đích thực, kiếm tìm cảm giác của tình yêu dù đó chỉ là một cuộc tình ngắn ngủi nhưng sạch sẽ, sáng trong. Chỉ cần cái ý nghĩ ấy thôi, chỉ cần sự “khát thèm và cuộc dấn thân ấy cũng đã khiến tâm hồn cô trở nên "trinh bạch, thuần khiết như một nụ hoa đồng".
Và ai có thể ngờ Tú (Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh), người trai lành hiền, ngu ngơ khiến nhiều người gọi là “Tú đần” lại có một tình yêu tha thiết đến thế. Tú - chàng trai ngốc nghếch luôn theo đuổi những giấc mơ mang màu rêu đỏ. Cái đần, cái ngốc của Tú ai cũng thấy, nhưng ít ai biết bên trong cái đầu tóc xoăn bù xù kia lại là một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm vô cùng. Không tinh tế sao nhận thấy cái phép màu của thời tiết Sa Pa “đang giữa mùa hè mà có lúc sương mù xoá mất cả thị trấn, lơ đi một chút, ngoảnh mặt lại đã thấy nhà cửa, người ngựa biến đi đâu” và lãng mạn đến độ “thích thú nhìn mây bay
ngùn ngụt từng đám lớn ngay ngoài cửa, có lần thò tay cố lôi một nắm vào trong nhà ...”. Con người ấy, nhạy cảm đến mức cảm nhận được sắc lam dìu dịu của hoa bìm bìm trong đêm, đến mức có thể cùng trò chuyện cùng hồn hoa mong manh, sương khói của loài cẩm tú cầu, cảm nhận được cả cái ấm nóng của màu rêu đỏ hoang dại .... Và người trai ấy, có một tình yêu sáng trong, tha thiết chân thành dù cũng đau đớn vô cùng. Tú đã đi theo tiếng gọi tình yêu, mặc mọi lời giễu cợt, mặc cả sự thờ ơ của cô gái anh đã trao trọn trái tim, mặc mưa tuyết và gió rét. Tình yêu của Tú còn mạnh hơn cả cái chết. Có lẽ vì tâm hồn sơ giản, trong sáng và chân thật mà Tú mới được gặp hồn hoa cẩm tú cầu, nghe hoa kể chuyện đời mình.
Không chỉ ở những nhân vật chính, có tên ta mới bắt gặp tâm hồn nghệ sĩ của họ. Cả những nhân vật không tên xuất hiện thoáng qua trong trang văn Phạm Duy Nghĩa cũng cho ta thấy cái tư chất nghệ sỹ nơi họ. Đó là anh công nhân lâm trường với bàn tay sáu ngón, đen đúa mà tài hoa (Cô gái xuống ga Vĩnh yên), anh chàng đánh cá trên hồ, “hoàng tử cóc” của cô bé Nhi (Ngôi nhà nhỏ bên hồ) .... Những mảnh tâm hồn thoáng qua ấy, phải chăng muốn nhắn nhủ ta rằng: giữa cuộc sống đời thường, trong mỗi con người bình thường đều ẩn náu một tâm hồn nghệ sỹ, có điều tâm hồn ấy có được nuôi dưỡng và có cơ hội để toả sáng hay không mà thôi.
Nếu như, những nhân vật mang vẻ đẹp đạo đức thường được miêu tả bằng ngòi bút hiện thực, bộc lộ mình qua những tình huống xảy ra giữa đời thực, bằng những giằng xé nội tâm mãnh liệt,... thì những nhân vật mang vẻ đẹp tâm hồn lại thường được tác giả thể hiện bằng bút pháp lãng mạn, có khi xen huyền ảo và thường gắn với một cá tính khác thường. Nhạc sỹ Vi Văn Quăm gắn liền với vũ điệu trần truồng và man dại; Sểnh Mẩy bí ẩn và hoang dã; cô bé Nhi với tâm hồn lãng mạn như Natasa trong đêm trăng trang ấp thì gắn liền với hồ nước xanh bên hàng bạch đàn thân trắng, lá đỏ, thê thiết trong
Có thể bạn quan tâm!
- Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa - 4
- Các Kiểu Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Phạm Duy Nghĩa
- Nhân Vật Thể Hiện Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Con Người
- Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa - 8
- Ngôn Ngữ Giàu Chất Thơ Và Nhạc Tính
- Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa - 10
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
gió. Còn Tú và tình yêu của anh luôn gắn với mây, với sương và sắc lam tím dìu dịu đầy hư ảo của hoa bìm bìm....
Mỗi người đều mang một tính cách khác thường đặc biệt, có lúc còn là những cá tính dị thường và điều ấy phải chăng đã dẫn đến một đặc điểm chung nữa ở họ: Sự cô đơn, cô độc.
Cô đơn là trạng thái bi kịch, là nỗi đau tinh thần lớn nhất của con người. Phẩm chất của người nghệ sỹ là nhạy cảm và tha thiết với cái đẹp, họ đem cái đẹp đến giữa còi đời dung tục, đem sự mở rộng đặt giữa những toan tính đời thường, họ đặt khát khao dâng hiến và bung toả lên trên những thói đời tầm thường. Cho nên những con người mang tâm hồn nghệ sỹ dễ trở nên lạc lòng giữa đời thường, người đời sẽ rất khó hiểu những hành động của họ và càng khó đồng cảm, khó lý giải hơn nữa những điều đang diễn ra trong thẳm sâu tâm hồn họ. Sự cô đơn của nhân vật trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa được thể hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Có khi là lời nhận xét, bình luận “Tôi và cô, một gái làm tiền và một người trí thức, chỉ là hai linh hồn bé nhỏ, bất lực và cô đơn” (Cô gái xuống ga Vĩnh Yên) “người bạn làm cùng bảo như thế là đời Tú đơn lạnh, khao khát lắm mà chẳng bao giờ tìm được tổ ấm đâu” (Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh). Có khi bộc lộ trực tiếp bằng những lời tỏ bày của nhân vật “nhà em vắng lạnh lắm.... em buồn lắm. Em cần một người hiểu em để em có thể chia sẻ” (Vệt sáng trên ban công), cũng có khi nỗi cô đơn được thầm lặng gửi vào tình yêu với sách, tình bạn với những nhân vật đẹp đẽ trong trang sách (Ngôi nhà nhỏ bên hồ),... Những tâm hồn nghệ sỹ ấy đơn độc trong hành trình đi tìm cái đẹp. Họ ý thức được và chấp nhận điều đó bởi dường như trong nỗi đau của sự cô độc ấy còn có cả niềm kiêu hãnh. Họ đã góp phần làm nên chất thơ trong cuộc sống đời thường.
Dù dị thường, khác biệt và cô đơn, những nhân vật mang tâm hồn nghệ sỹ của Phạm Duy Nghĩa đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Khi thì mạnh mẽ như dấu ấn của loài mãnh thú rừng xanh ngạo nghễ kiêu hùng, như những cánh chim bằng tung bay giữa bầu trời lộng gió, như dòng thác bạc ầm ầm đổ mình ngày đêm tìm đường ra biển lớn, lại có lúc rung ngân, dịu nhẹ mà lắng sâu, khó mờ phai như vẻ đẹp của “một tâm hồn bé bỏng đã vỗ đôi cánh ngập ngừng trong suốt để rồi bay mãi vào bầu trời xanh thẳm”.
Những tâm hồn, tính cách nghệ sỹ đó như một phần của Phạm Duy Nghĩa, mang theo những ước vọng âm thầm mà mãnh liệt của một nhà văn thâm trầm, sâu sắc mà ẩn chứa nhiều khát khao bung toả.
2.2.2. Nhân vật tha hoá
Trong thế giới nhân vật của Phạm Duy Nghĩa, ngoài những nhân vật thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách con người, còn xuất hiện những nhân vật phản ánh phần khuất lấp, tăm tối và biến chất trong con người, ở đây gọi chung là những nhân vật tha hoá.
Tha hoá là làm cho khác đi, biến thành xấu đi hay biến thành cái khác, đối nghịch với cái ban đầu của mình, của cộng đồng, nguồn gốc đã sinh ra mình. Nó thể hiện sự xuống cấp của con người mà nguyên nhân sâu xa nằm ở phía xã hội.
Là một nhà văn chủ yếu viết về miền núi nên hình tượng con người miền núi xuất hiện trong phần lớn các sáng tác của Phạm Duy Nghĩa. Ở đó, chúng ta không thấy những con người miền núi "thật thà đến ngớ ngẩn" nhưng cũng bắt gặp không ít những con người tăm tối, thiếu hiểu biết. Sự tăm tối, thiếu hiểu biết của họ có lúc đã trở thành độc ác, hãm hại con người.
Đới Bạt Kinh (Chuyện ở Ô Cán Hồ) là một đại diện cho những con người như thế. Trong một lần đi chợ, ban đêm, uống rượu say, ông ta đã mò vào cưỡng hiếp bà chủ một sạp vải bị chồng bà ta thình lình trở về chém vào mặt, từ đó, ông ta căm thù dân thị trấn và những người sống ở vùng thấp. Ông ta cũng không chấp nhận bất cứ thứ gì thuộc về "bọn người ấy". Con đẻ ra, ông ta không cho đứa nào đi học. Sách kĩ thuật nông nghiệp bị ông ta khinh rẻ và đốt cháy trong khi mùa màng thất bát thì ông cho là tại ma quỷ. Sống biệt lập giữa núi non trùng điệp, lại thiếu ánh sáng văn hoá và tri thức, con người ấy ngày càng tăm tối. Vì lòng tham, Bạt Kinh đã mang đứa trẻ bị lạc trong một phiên chợ xuân về nuôi. Đến khi không thấy ai mang "món tiền chuộc lớn" đến chuộc như ông ta hi vọng thì ông ta đâm ra bực tức và hắt hủi nó. Mù quáng, ngu dốt, ông ta theo lời phù thuỷ tin rằng đứa bé là một con ma đến hãm hại gia đình ông ta nên càng đối xử tàn tệ với đứa bé - bắt ở một mình trong cái lán trên rừng, không cho về nhà, mỗi bữa chỉ cho ăn một bát cơm với rau, khiến Linh (tên đứa bé) chỉ còn là "một mớ thịt mỏng trắng bệch", đầu lơ thơ tóc. Cuối cùng, ông ta quyết định bán Linh như bán một con vật mà không hề mảy may động tâm xem bọn người như đồ tể ấy sẽ đối xử với Linh như thế nào, cô bé sẽ sống, chết ra sao. Sự tăm tối, dốt nát và lòng tham của người đàn ông đó đã gây ra tội ác. Nhưng sự im lặng của bà mẹ, sự về hùa của Tắc (người con cả), sự nhu nhược và hèn yếu của Tần (người con thứ hai) cũng bị coi như đồng lòa với tội ác ấy. Con người u tối, thiếu hiểu biết thật đáng sợ mà cũng thật đáng thương.
Có ai đó đã nói rằng, con người là loài mạnh nhất nhưng cũng là loài yếu nhất. Vì sao? Vì bên cạnh những đặc điểm ưu việt khiến con người trở thành bá chủ muôn loài, thống trị thế giới thì tự bản thân con người vẫn tồn tại đầy nhược điểm. Bên cạnh lòng dũng cảm, sự độ lượng, đức hi sinh, những ước mơ bay bổng, những khát vọng cao đẹp, trong con người còn tồn
tại sự sợ hãi, yếu đuối, lòng ích kỉ, thói kiêu ngạo, những ham muốm nhỏ nhen, những dục vọng thấp hèn. Chính những điểm yếu ấy đã có lúc không những ngăn cản con người đến với nhau mà có lúc đã làm hại chính con người. "Tôi" (Vệt sáng trên ban công) khi nhận ra Hà "cần tôi", "không thể thiếu tôi" thì trở nên kiêu ngạo và "dần nảy sinh ý thức tàn nhẫn đối với con bé" dù trong thâm tâm vẫn quý mến Hà. Cho rằng cô đã xúc phạm đến "niềm tự hào hiểu biết" của mình, anh ta tự cho mình cái quyền được trút lên Hà "đủ thứ rác rưởi của sự cay độc", khi cô bé tỏ ra bướng bỉnh, quyết bảo vệ ý kiến của mình, và khi cô bé lặng lẽ, âm thầm khóc thì anh ta đáp lại bằng một thái độ dửng dưng, lạnh lùng. Chỉ vì bản thân "vốn ghét màu gạch non" và "không thích con gái cẩu thả trong ăn mặc" mà anh ta cũng tự cho mình cái quyền được mắng mỏ, chỉ trích cô bé thậm tệ khi khó chịu một cách vô lý trước "chiếc áo màu gạch non xoàng xĩnh và hơi nhàu, mái tóc không chải thoảng mùi ngai ngái" của Hà. Để rồi anh ta hắt hủi Hà, dửng dưng trước nỗi đau cô độc của Hà. Sự ích kỉ và thói kiêu ngạo nhất thời ấy của anh ta đã khiến anh ta đánh mất Hà. Khi anh ta nhận ra mình yêu cô gái, hoảng hốt đi tìm thì không bao giờ được gặp cô nữa. Anh ta phải sống trong niềm day dứt và ân hận khôn nguôi vì đã độc ác làm tổn thương một tâm hồn cô độc mong manh, "một tâm hồn trong xanh còn xót lại giữa chốn phồn hoa gió bụi, lẽ ra cần được nâng niu, gìn giữ..."
Chính sự ích kỉ đôi khi cũng khiến con người tự hạ bệ mình từ một vị trí đáng kính trọng xuống hạng tầm thường. Vũ (Thông trên đá), là thầy giáo trẻ trong một trường sư phạm,"đẹp trai lồng lộng lại giảng bài hay", "tuy còn trẻ nhưng đang tạo lập được uy tín", là niềm mơ ước của bao nhiêu nữ sinh. Với quan niệm tình yêu là thiêng liêng, anh đã gồng mình chống lại bao cám dỗ, hết cách này đến cách khác từ chối những lời tỏ tình của các nữ giáo sinh để chung thuỷ với Ngân, người yêu của anh. Thế nhưng, khi biết cô người yêu
xinh đẹp, nết na, hình bóng rất gần của "một người vợ đảm đang, một nàng dâu hiền thảo" ấy đã từ bỏ tình yêu của anh để đến với một anh công nhân làm đường người đen đủi, tóc xém vàng lại thọt chân và "hủ hoá" với anh ta thì Vũ như biến thành một con người khác. Như một con thú bị thương, tức giận, đau đớn, cả tự ái khi lòng tự tôn bị xúc phạm đã khiến Vũ "nảy ra một ý định tàn nhẫn" là gặp lại cô gái, tìm cách sỉ nhục cô bằng những lời ngọt nhạt rằng anh vẫn yêu cô, sẵn sàng tha thứ cho cô, bảo lãnh cho cô không bị đuổi học nếu cô từ bỏ tình yêu tội lỗi kia. Cái ý nghĩ nanh nọc của Vũ sau cuộc gặp gỡ ấy, khiến người ta thất vọng về anh: "Cô tưởng tôi thừa bao dung để hi sinh vì cô à? Không bao giờ! Con người sống đạo đức, mô phạm như tôi thà bị cắt tiết băm chặt làm phân, quyết không chấp nhận hạng đĩ ngầm. Tôi chỉ đóng kịch dạo chơi trên nỗi nhục của cô cho hả lòng căm giận mà thôi.". Ban đầu, người đọc khó mà tưởng tượng được có lúc Vũ lại trở thành một kẻ nhỏ mọn, tầm thường đến như vậy. Đúng là, khi rơi vào bi kịch, con người ta mới bộc lộ mình đến tận cùng bản thể. Và Phạm Duy Nghĩa đã tìm cách đặt nhân vật của mình vào những cảnh huống đặc biệt để "lộ diện, lộ hồn" là như thế.
Cuộc sống vốn đa dạng, muôn hình muôn vẻ, đôi mắt bé nhỏ và tầm nhìn giới hạn của con người khó có thể nhìn nhận một cách trọn vẹn cả thế giới vốn không hề giản đơn. Tâm hồn con người lại càng là một thế giới bí ẩn, phức tạp và khó đoán. Đó là một vũ trụ riêng, tuần hoàn với những quy luật riêng của nó. Lấy suy nghĩ, tình cảm và quan niệm của mình để suy xét và đánh giá người khác một cách phiến diện một chiều nhiều khi gây ra những hậu quả đau lòng, có thể biến những điều tưởng như tốt đẹp trở nên tồi tệ, thậm chí còn có thể huỷ hoại con người. Đám đông sinh viên (Hoa trúc đào) với những nhân vật đại diện như Lâm, Lý, Dung, Huyền, Tú, Minh,... bằng thứ tình yêu tôn thờ đến ích kỉ đã đặt lên vai người thầy thần tượng của họ một gánh nặng quá sức: "chúng không cho thầy được quyền khiếm khuyết",
"không muốn thầy đi ngang về tắt", không muốn "tim thầy biết rạo rực yêu đương". Họ bắt thầy "phải là Thánh, là Phật" " hoàn mĩ, toàn bích" và nhiệm vụ của thầy là "ngồi một mình trên bệ cao mà toả hào quang". Họ " quên mất thầy cũng là một con người". Cho nên, trong số họ, không một ai hiểu được vì sao thầy lại yêu Vân, "một đứa con gái gầy đét, da khô, mặt dày đặc tàn nhang", "sống lặng lẽ như gián, ăn ít như chim" và "suốt mùa đông tùm hụp chiếc khăn đen như một nữ tu sĩ". Lòng họ đau đớn, tan nát khi thấy "bao đêm ròng... cứ về khuya thầy lại mở cửa sổ căn phòng tắt điện, đứng nhìn lên tầng hai khu nội trú sinh viên" hướng về người mình yêu như bất cứ một kẻ si tình nào. Họ không thể chịu đựng được khi thần tượng sụp đổ. Vốn "đã quen với lối tư duy rằng người khác phải yêu những gì mình yêu, nghĩ giống như mình nghĩ", họ vô cùng đau đớn khi biết rằng người con gái "quá đỗi bình thường" kia lại không hề yêu người thầy tuyệt vời của họ. Họ phẫn nộ, họ đùng đùng nổi giận. Họ cô lập Vân, dành cho cô sự kì thị và ném vào cô những lời hằn học: "con rắn da khô", "loài héo tim", "kẻ máu lạnh"...vì với họ, cô đã phạm tội tày đình, một "trọng tội" là đã "dẫm đạp lên niềm tự hào của cả lớp, cả khoa". Họ đồng loạt tẩy chay Vân dù trong thâm tâm thở phào nhẹ nhòm. Trong cơn giận dữ ích kỉ ấy, họ "quên Vân cũng là một con người". Phòng tổ chức cũng như đồng tình với họ khi yêu cầu thầy "xem lại tư tưởng, lập trường" vì "đối với nữ sinh viên, dù xấu, dù xinh, người thầy giáo không có quyền rung động", vì như thế là "vi phạm chuẩn mực nhà giáo". Ban chủ nhiệm khoa cũng cùng một tư tưởng khi cảnh cáo Vân:"Nên nhớ các thầy là di tích đã được xếp hạng. Nữ sinh viên các cô không được phép thích thầy". Cái nhìn cực đoan của họ đã gây ra nỗi đau đớn nặng nề cho cả người họ yêu thương lẫn người họ ghét bỏ. Thứ tình yêu ích kỉ của bọn họ đã giết chết một tình yêu khác, đã "chôn sống" không chỉ một mà hai con người.