hệ giữa âm nhạc, văn học, múa, mĩ thuật và các động tác trong NTTD Then tức là chưa nghiên cứu NTTD nghi lễ Then trong không gian nghi lễ cụ thể của nó.
1.1.1.3. Các nghiên cứu về nghi lễ Then, nghệ thuật trình diễn Then ở Lạng Sơn
- Nhóm công trình tiếp cận nghi lễ:
Tiếp cận nghiên cứu nghi lễ Then có đề tài luận văn tốt nghiệp đại học khoa sử, trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, năm 1999, Đạo Then trong đời sống tâm linh của người Tày - Nùng Lạng Sơn [97] của tác giả Đoàn Thị Tuyến. Luận văn này đã tập trung nghiên cứu những vấn đề: Nghệ nhân Then, thế giới tâm linh và điện thờ, nhập đồng và nghi thức hành lễ, vai trò tinh thần, xã hội của Then trong cộng đồng. Với cách nghiên cứu này, tác giả đã có một cách tiếp cận tổng thể về Then và là những tư liệu xác thực, cần thiết khi nghiên cứu về Then Lạng Sơn.
Tương tự, năm 2003, tác giả Nguyễn Thị Hoa thực hiện đề tài Khảo sát Then hắt khoăn (giải hạn) của người Tày ở huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn [24]. Phần kết luận của luận văn đề cập đến một số đặc điểm của Then Tày ở Đình Lập. Những kết quả nghiên cứu của đề tài rất cần thiết cho việc đối sánh giữa Then Bắc Sơn với các vùng Then khác để tìm ra được những nét đặc trưng.
- Nhóm công trình tiếp cận theo hướng nghệ thuật:
NTTD nghi lễ Then của người Tày Lạng Sơn cũng đã được tác giả Dương Thị Lâm trình bày trong đề tài cao học Nghệ thuật Then của người Tày ở Lạng Sơn [42]. Trong đó tác giả cho rằng đặc điểm của nghệ thuật diễn xướng Then là hát và múa kết hợp với đàn, xóc nhạc. Những kết quả nghiên cứu sẽ là những cứ liệu giúp tôi so sánh trong đề tài này.
Theo hướng tiếp cận nghiên cứu âm nhạc Then từ diễn xướng nghi lễ, năm 2007, tác giả Trần Quang Hưng thực hiện luận văn cao học Âm nhạc trong nghi lễ cầu an giải hạn (qua khảo sát tại bản Pác Sào, xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn) [32]. Khóa luận tốt nghiệp đại học Then giải hạn của người Nùng ở xã Vân Nham, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn [63] của tác giả Hoàng Thị Quý.
Năm 2015, tác giả Trần Văn Ái, Dương Thị Lâm chủ biên (tác giả luận án là thành viên trong nhóm nghiên cứu) viết cuốn Lẩu Then cấp sắc hành nghề của
Có thể bạn quan tâm!
- Nghệ thuật trình diễn nghi lễ Then của người Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn - 1
- Nghệ thuật trình diễn nghi lễ Then của người Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn - 2
- Tiếp Cận Nghiên Cứu Từ Lý Thuyết Nghệ Thuật Trình Diễn
- Về Sự Biến Đổi Văn Hóa Người Tày Bắc Sơn Trong Giai Đoạn Hiện Nay
- Then Của Người Tày Bắc Sơn Trong Không Gian Then Của Người Tày, Nùng Lạng Sơn
Xem toàn bộ 231 trang tài liệu này.
người Tày ở xã Tân Lập, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn [43]. Công trình này khái quát về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội người Tày xã Tân Lập (Bắc Sơn, Lạng Sơn), công trình nghiên cứu về mục đích, vai trò của đại lễ Then với các chương đoạn, trình tự, cách thức thực hiện rất cụ thể và đầy đủ. Điểm mới của công trình là nhóm tác giả đã tập trung làm rò hơn về những giá trị nghi lễ loại hình lẩu Then cấp sắc hành nghề và đưa ra giải pháp bảo tồn loại hình di sản văn hóa phi vật thể này.
Như vậy, so với các công trình nghiên cứu đi trước thì đối tượng khảo sát của đề tài này là NTTD nghi lễ Then cụ thể để qua đó tìm ra đặc điểm của Then ở Bắc Sơn – một vấn đề chưa được các nghiên cứu đi trước thực hiện một cách triệt để và có hệ thống. Điểm mới là qua tìm hiểu những giá trị của NTTD nghi lễ Then, luận án hướng đến vận dụng những giá trị trên sân khấu đương đại theo hình thức bảo tồn động.
1.1.2. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu
1.1.2.1. Đóng góp của các nguồn tư liệu về vấn đề nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục đặt ra
Về mặt lý luận: Được thể hiện qua hệ thống các công trình nghiên cứu tiếp cận nghi lễ Then từ góc độ diễn xướng nghi lễ. Theo đó việc nghiên cứu Then cần đặt trong bối cảnh cụ thể về thời gian, không gian, trong sự xem xét đồng bộ mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên nghi lễ Then như: Người thực hành nghi lễ (thầy Then), không gian tổ chức nghi lễ và đặc biệt là các thành tố nghệ thuật tham gia vào quá trình diễn xướng nghi lễ Then (âm nhạc, lời khấn, lời ca, các điệu múa, nghệ thuật tạo hình, trang trí...). Theo như vậy trong nghi lễ Then, yếu tố tôn giáo tín ngưỡng chính là trung tâm thu hút các yếu tố văn hóa NTTD Then trong mối liên hệ với địa phương, vùng miền, dòng nghề... Nói cách khác, việc thực hiện đề tài luận án này chính là sự tiếp tục hướng tiếp cận nghiên cứu diễn xướng nghi lễ Then của các tác giả đi trước, trên cơ sở đó đi sâu về khía cạnh NTTD Then.
Về mặt tư liệu: Với sự tham gia của nhiều tác giả thuộc các đối tượng nghiên cứu khác nhau, về cơ bản các công trình đi trước đã cung cấp được một cách hệ
thống các nghi lễ Then cùng các hình thức diễn xướng liên quan. Hầu hết các nghiên cứu được thực hiện ở những địa phương tiêu biểu thuộc Cao Bằng, Bắc Kạn, một số địa phương thuộc Lạng Sơn. Đây là nguồn tư liệu cần thiết cho việc tìm hiểu, so sánh nghi lễ Then, Pụt giữa các địa phương khác nhau ở Việt Bắc.
Về mặt học thuật: Một số công trình đã có những đóng góp nhất định qua việc chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật, nhất là ở mảng âm nhạc trong Then. Qua đó cho thấy sự nổi bật đồng thời cũng là sức hút của Then chính là ở NTTD âm nhạc bên cạnh đó là sự không thể thiếu vắng của các thành tố NTTD khác.
Những vấn đề còn bỏ ngỏ: Như đã trình bày, do xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau nên các công trình đi trước chưa tập trung nghiên cứu làm rò đặc điểm của NTTD nghi lễ Then. Các nghiên cứu về diễn xướng nghi lễ Then chủ yếu tập trung làm rò đặc điểm và sự tham gia của các thành tố nghệ thuật, qua đó làm rò vai trò của NTTD Then trong đời sống cộng đồng nhưng còn thiếu sự nghiên cứu đồng bộ. Trong khi đó muốn tìm hiểu NTTD Then thì tất cả những thành tố của NTTD Then phải được xem xét tổng thể với những mối liên hệ, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy, đặt ra những vấn đề trọng tâm mà luận án cần nghiên cứu.
1.1.2.2. Những vấn đề nghiên cứu trọng tâm của luận án
Qua phần tổng quan về lịch sử nghiên cứu, tổng quan về các tài liệu liên quan tới đề tài, tác giả luận án cho rằng việc thực hiện đề tài: “Nghệ thuật trình diễn nghi lễ Then của người Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn” là một hướng nghiên cứu kế thừa kết quả của các tác giả đi trước trên cơ sở tiếp tục làm rò hơn những vấn đề liên quan đến NTTD Then thông qua các nội dung:
Trình bày về trình diễn nghi lễ Then với sự nguyên hợp của các yếu tố: thời gian, không gian, kịch bản, người biểu diễn, cách thức trình diễn các thành tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa người biểu diễn và khán giả.
Làm rò tính địa phương của NTTD nghi lễ Then của người Tày Bắc Sơn thông qua sự so sánh với Then của người Tày ở địa phương khác; với người Nùng và với hầu đồng của người Việt.
Đánh giá, tìm hiểu vai trò, sự biến đổi và vấn đề cải biên trên sân khấu biểu diễn hiện nay. Đặt ra giải pháp phù hợp cho hoạt động bảo tồn, phát huy, ứng dụng NTTD nghi lễ Then trong đời sống đương đại.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Khái niệm “Then”
Then gắn với đời sống tâm linh của người Tày, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng Tày - Nùng. Do đó, Then là một khái niệm rộng bao hàm nhiều hình thức biểu đạt khác nhau. Vì vậy, để tìm hiểu khái niệm Then cần bắt đầu từ việc tìm hiểu nguồn gốc tên gọi “Then”.
Về nguồn gốc tên gọi “Then”: Trong công trình Then Tày [110] ở mục “Then và các khái niệm tín ngưỡng liên quan đến Then” tác giả Nguyễn Thị Yên đã dẫn ra 9 cách viết bằng chữ Hán Nôm khác nhau để chỉ “Then”, theo đó thì 6/9 chữ dùng chữ “thiên” (trời) để biểu đạt nghĩa “Then”, từ đó tác giả đã phân tích và đi đến giả định “Tên gọi Then là bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ trời của các cư dân Tày- Thái nói chung”, việc họ dùng chữ “thiên” đọc trại đi thành “Then” là sự vay mượn chữ Hán là để tôn xưng trời (phạ) mà họ thờ phụng [110, tr.57-70].
Về sự phái diễn các tên gọi khác nhau liên quan đến khái niệm “Then”:
Then là từ dùng để chỉ những người làm nghề cúng bái theo dạng nghi lễ này (mẻ Then, pỏ Then- bà Then, ông Then) [16, tr.271]. Cách gọi này theo quan điểm từ “Then” có xuất phát từ “sliên - tiên”, từ này là biến âm của từ “thiên - trời” theo lý giải ở trên. Hay người làm Then vừa là một ca sĩ, một nhạc công, vừa đánh đàn vừa hát, đôi khi kiêm xóc nhạc, đồng thời cũng lại là một vũ công tài giỏi biểu diễn các điệu múa trước đám đông hâm mộ [55, tr.11-12].
+ Then là tên gọi của một loại hình dân ca nghi lễ của người Tày (gọi là hắt/hết Then - làm Then, có nơi như Cao Bằng gọi là hết pụt - làm Pụt) được nhà nghiên cứu gọi là “hát Then”, nay là cách gọi thông dụng trong đời sống văn hóa của người Tày. Nội dung của dân ca nghi lễ Then là thuật lại cuộc hành trình lên trời để cầu xin Ngọc Hoàng giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ. Trong hát
Then mỗi làn điệu Then được sắp xếp theo các trật tự khác nhau nhưng đều tuân theo bài bản và kết thúc đều có đường đi giống nhau, kết quả giống nhau.
+ Then là tên gọi một loại hình nghệ thuật tổng hợp bao gồm văn học, âm nhạc, múa, trò diễn và trang trí mĩ thuật [55, tr.19]. Tùy theo những chủ đề riêng và mục đích cụ thể để có sự kết hợp các yếu tố khác nhau như nhạc cụ (đàn tính, xóc nhạc), múa, tích trò và những điệu hát…
Tổng hợp các cách hiểu về Then của các tác giả đi trước, khái niệm Then tôi sử dụng trong đề tài nghiên cứu này là: “Then” là tên gọi một hình thức thực hành văn hóa tín ngưỡng liên quan đến tín ngưỡng thờ trời của người Tày, người Nùng và người Thái (Thái trắng) ở Việt Nam.
1.2.1.2. Khái niệm “Trình diễn” và “Nghệ thuật trình diễn”
Khái niệm “Diễn xướng” và “Trình diễn”
Năm 1997, Bộ Văn hóa tổ chức Hội nghị khoa học chuyên đề Diễn xướng dân gian và nghệ thuật sân khấu. Trong hội nghị này, nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau về thuật ngữ diễn xướng. Theo tác giả Lê Trung Vũ: “Diễn xướng vừa là hình thức sinh hoạt văn hóa xã hội định kỳ (như hội Gióng, hội Xoan, hội Chùa…) quy mô làng xã; vừa là sinh hoạt văn hóa xã hội không định kỳ như (đám cưới, đám tang, lễ thành niên, lễ thượng thọ…) quy mô gia đình hoặc việc làng xã. Diễn xướng là lối trình diễn rất tự nhiên không định kỳ cũng không định lệ mà do nhu cầu sinh hoạt trong lúc lao động, vì lao động hoặc để giải trí…” [113, tr.120]. Trong cuốn Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng có thể hiểu diễn xướng với hai tư cách:
Một là, diễn xướng là một phương thức. Nó là cách thức thể hiện, cách giới thiệu và trình bày. Theo đó, hầu hết các thể loại, thành phần của folklore nước ta đều được trình bày, giới thiệu bằng phương thức diễn xướng như: nói, kể, ví, vè, hát, hò, trò, múa, ca, vũ, lễ, nhạc... nếu không dùng phương thức diễn xướng thì không thực sự đến được với tâm hồn người dân.
Hai là, diễn xướng là một thể loại. Theo đó, các thể loại văn học dân gian trong quá trình diễn xướng, công bố trước quần chúng dần có những hình
thức được phát triển, biến hóa, kết hợp với nhiều hình thức với nhau để thỏa mãn một yêu cầu thẩm mỹ. Lúc đó, bản thân từng thể loại không đáp ứng được yêu cầu phát triển này, nên đã trở thành một dạng thức khác, có tổ chức hơn, có quy củ hơn. Diễn xướng lúc đó không còn là một cách trình bày, mà thực sự đã thành một màn biểu diễn [39, tr.14-18].
Liên quan đến vấn đề này, tác giả Tô Ngọc Thanh đặt vấn đề nên chăng sử dụng thuật ngữ “trình diễn” thay cho thuật ngữ “diễn xướng” bởi thuật ngữ “diễn xướng” đã dẫn đến liên tưởng về các loại hình: âm nhạc, múa, sân khấu, trong đó bao gồm các yếu tố diễn xuất và ca xướng. Để có một hàm nghĩa rộng hơn, thuật ngữ “trình diễn” thích hợp và diễn xướng là một dạng của trình diễn” [72, tr.25].
Cùng có quan điểm này, trong bài viết “Nhìn lại khái niệm diễn xướng” [68] tác giả Kiều Trung Sơn có chỉ ra “diễn xướng” là khái niệm hẹp của người Việt Nam dùng trong nghiên cứu văn hóa truyền thống, không có trong thuật ngữ quốc tế, còn “trình diễn” là khái niệm rộng bao gồm cả “diễn xướng” và các loại hình khác như trình diễn sâu khấu; tác giả định nghĩa rất cụ thể: Diễn xướng là một loại hình nghệ thuật dân gian, ứng diễn, truyền khẩu, sử dụng tổng hợp nhiều yếu tố nghệ thuật, trong đó diễn ngôn là yếu tố chủ đạo, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, siêu nhiên và xã hội (trong giao tiếp, giao duyên, thực hiện các nghi lễ phong tục, tín ngưỡng). Như vậy, từ góc độ loại hình, tác giả đưa ra nhận định: nghệ thuật cách điệu ngữ âm gắn với các yếu tố nghệ thuật khác như múa, âm nhạc, tạo hình, phục trang, sân khấu… trong một thể thống nhất tạo thành nghệ thuật diễn xướng. Trong đó, yếu tố cơ bản của diễn xướng là diễn ngôn, kể miệng bằng phương thức cách điệu ngữ âm, các thành tố khác chỉ mang tính phụ họa, nhằm mục đích thuyết phục hơn cho nghệ thuật này. Tác giả Kiều Trung Sơn cũng đã lưu ý về việc sử dụng khái niệm diễn xướng và trình diễn bởi theo ông: “diễn xướng đúng là một sự trình diễn. Nhưng ít ai nghĩ rằng diễn xướng chỉ là một trong rất nhiều hiện tượng mang tính trình diễn” [68].
Như vậy, qua phân tích thuật ngữ “diễn xướng” và “trình diễn”, chúng ta đã có thể nhận thấy hai thuật ngữ này có phạm trù tương đối giống nhau, sự khác nhau là ở mục tiêu nghiên cứu cần hướng đến. “Trình diễn” là khái niệm rộng
(performance) bao gồm trong nó cả “diễn xướng” là khái niệm của người Việt Nam sử dụng trong nghiên cứu văn hóa dân gian.
Nghệ thuật trình diễn:
Thuật ngữ “Nghệ thuật trình diễn” - “Perfomance Art” cũng được hiểu là thể thức nghệ thuật mà ở đó những nghệ sĩ sử dụng tiếng nói và/ hoặc sự chuyển động của cơ thể họ, trong mối liên hệ với những đối tượng khác, để truyền đạt những biểu hiện của nghệ thuật. NTTD bao gồm nhiều sự thực hành khác nhau (có thể là âm nhạc, có thể là nghi thức và cũng có thể là nghi lễ tôn giáo hay trình diễn thể thao…) nhưng tất cả loại hình này đều có dụng ý là trình diễn trước khán giả. NTTD ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật một cách trọn vẹn nhất của con người hay nói cách khác, NTTD đưa đến cho người thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật ở trạng thái hấp dẫn nhất, mà ở đó có thể “mê hoặc” người xem. (Đây là quan điểm của tác giả rút ra từ các khái niệm liên quan đến NTTD)
Như vậy, trong đề tài này, khái niệm “Nghệ thuật trình diễn” được hiểu là: một màn trình diễn được trình bày cho công chúng bởi những người thực hành (chuyên hoặc không chuyên), nhằm diễn đạt ý tưởng theo một kịch bản có sẵn, trong đó có nhấn mạnh đến mối quan hệ tương tác giữa người diễn và người thưởng ngoạn.
Nghệ thuật trình diễn nghi lễ Then:
Ta biết rằng trình diễn nghi lễ Then (thuật ngữ quen gọi là “diễn xướng nghi lễ Then”) là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp với sự tham gia của nhiều thành tố nghệ thuật như: ngôn từ, âm nhạc, múa, sân khấu, trò diễn,…. Vì vậy việc sử dụng khái niệm “Nghệ thuật trình diễn” là hướng tới nghiên cứu nghi lễ Then như một chỉnh thể thống nhất, ở đó thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật một cách trọn vẹn nhất của người tham dự, chú trọng đến mối tương tác giữa người thực hành Then và những người tham dự.
Theo đó, đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là NTTD nghi lễ Then, nó không chỉ có yếu tố diễn (sử dụng ngôn ngữ của các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, mĩ thuật, múa…) của người thực hành nghi lễ, mà còn là tổng hợp của nhiều yếu tố khác như phục trang, hóa trang, đạo cụ, ánh sáng (Xin lưu ý rằng đạo cụ
trong NTTD nghi lễ Then là những dụng cụ hành nghề của thầy Then, còn ánh sáng được hiểu là những yếu tố tự nhiên của bối cảnh trình diễn đem lại không phải ánh sáng từ trang thiết bị sân khấu chuyên nghiệp)... Đặc biệt ta biết rằng, trong NTTD nghi lễ Then, khán giả không chỉ là người xem, người tham dự đóng vai trò thụ động trong việc thưởng thức mà còn có sự tương tác với người trình diễn, cùng tham gia trình diễn, điều này góp phần thành công của nghi lễ. Việc trình diễn trong nghi lễ Then có thể theo nguyên bản hoặc dị bản, ngẫu hứng hoặc có kịch bản cẩn thận. Như vậy những yếu tố cơ bản tham gia vào NTTD nghi lễ Then sẽ bao gồm: thời gian, không gian, kịch bản chương trình, người trình diễn, các thành tố nghệ thuật và sự tương tác giữa người trình diễn với người tham dự. Chính những hành động của cá nhân người trình diễn (hay của nhóm) ở những địa điểm và thời gian đặc biệt đã tạo nên sự khác biệt của loại hình nghệ thuật này.
Như vậy, việc sử dụng thuật ngữ “Nghệ thuật trình diễn” trong đề tài này là nhằm hướng tới một số mục đích chính sau đây:
Một là để thống nhất khái niệm với thuật ngữ thông dụng trên quốc tế trong nghiên cứu nghệ thuật hiện nay.
Hai là việc sử dụng khái niệm này chúng tôi đặc biệt quan tâm đến sự tương tác và tác động của những giá trị nghệ thuật tới người tham dự với tư cách là khán giả, tức là quan tâm đến nhu cầu thưởng thức hoặc tham dự trình diễn nghệ thuật của người dân trong khi tham dự nghi lễ.
Ba là, với khái niệm “Nghệ thuật trình diễn” thì từ việc khảo sát nghệ thuật nguyên hợp trong nghi lễ Then cụ thể thì chúng tôi còn mở rộng xem xét việc bảo tồn, phát huy dưới dạng khai thác NTTD nghi lễ Then (theo hình thức cải biên, sân khấu hóa) để phục vụ đời sống văn nghệ của người Tày hiện nay.
1.2.1.3. Giá trị
Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về tính giá trị trong NTTD nghi lễ Then, từ đó làm cơ sở cho việc bảo tồn nhằm phát huy hiệu quả những giá trị của Then trong đời sống văn hóa của người Tày, thể hiện ở các khía cạnh: cảm nhận; sáng tạo và thụ hưởng; trao truyền; quảng bá. Vậy “giá trị” là gì và “giá trị” trong Then cần được hiểu như là một khái niệm chỉ ý nghĩa của các hiện