Đặc Điểm Về An Ninh - Chính Trị, Văn Hóa - Xã Hội

1.822 người trên km2 thì ở vùng núi (huyện Thanh Sơn) mật độ dân số là 136,9 người trên km2. Điều đó cho thấy việc quản lý dân cư trên địa bàn miền núi cao và đô thị mỗi vùng đều có những phức tạp riêng của nó. Chỉ nói riêng huyện Thanh Sơn, với diện tích 1.337,69 km2 nhưng dân số chỉ có 183.141 người, với 39 xã, 1 thị trấn trong đó có 5 xã vùng núi cao đặc biệt khó khăn.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã từng bước khắc phục được khó khăn đẩy lùi được tỷ lệ đói nghèo, bài trừ được các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu ra khỏi thôn bản, đồng bào các dân tộc thiểu số đã biết đưa khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng vật nuôi cây trồng đạt năng suất cao, cải tiến phương thức làm nông nghiệp.

Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có 20 dân tộc anh em sinh sống, dân tộc thiểu số có 188 nghìn người chiếm 14,9% dân số trong tỉnh.

2.1.3. Đặc điểm về an ninh - chính trị, văn hóa - xã hội


Nhận xét về tình hình an ninh - chính trị trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhìn chung ổn định. Việc khiếu kiện của quần chúng nhân dân tuy có giảm hơn so với trước, song vẫn xảy ra ở một số địa bàn trong tỉnh như: Việt Trì, Lâm Thao, Đoan Hùng, Phù Ninh... Nội dung khiếu kiện tập trung chủ yếu về những vấn đề liên quan đến vấn đề quản lý đất đai của chính quyền cấp xã, chính sách đền bù khi giải phóng mặt bằng, chính sách xã hội... Có những khiếu kiện của nhân dân kéo dài, khiếu kiện vượt cấp đến các cơ quan Đảng, Nhà nước ở Trung ương hiện đang được cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.

Điển hình là vụ khiếu kiện của một số công dân xã Thụy Vân - Việt Trì về việc đền bù giải phóng mặt bằng khu công nghiệp Thụy Vân kéo dài từ tháng 9/2000 đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm. Cuối tháng 11/2001 một số công dân xã Thụy Vân tiếp tục về Trung ương để khiếu kiện, mặc dù tháng 3/2001 Đoàn công tác của Tổng Thanh tra Nhà nước về làm việc, giải quyết khiếu kiện nhưng họ vẫn chưa nhất trí và tiếp tục khiếu kiện.

ở xã Bản Nguyên - huyện Lâm Thao, một số người lợi dụng quyền khiếu nại tố cáo đã viết đơn và vận động một số người khác ký vào đơn hoặc mạo chữ ký của người khác, lấy danh nghĩa tập thể để gửi đơn lên cấp trên đòi chia lại đất nông nghiệp giữa hai hợp tác xã. Một số hộ còn có đơn xin lại đất trước đây đã nhập vào hợp tác xã... Các cơ quan,

ban ngành ở huyện Lâm Thao đã giải quyết bằng nhiều biện pháp, đến nay tình hình đã tương đối ổn định.

Tỉnh Phú Thọ có hai tôn giáo chủ yếu là Công giáo và Phật giáo với tổng số gần 130 nghìn tín đồ chiếm gần 10% dân số trong toàn tỉnh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Trong thông báo kết quả công tác Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng chính quyền năm 2001, khi đánh giá tình hình tôn giáo đã nêu rõ:

Hoạt động của các tôn giáo diễn ra bình thường, song các tôn giáo có biểu hiện tranh thủ tập hợp quần chúng theo đạo, làm sầm uất xứ đạo; nơi nào cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc - lãnh đạo, quản lý tập hợp, tuyên truyền giáo dục tốt thì ở đó kinh tế phát triển, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tốt... Tuy vậy hoạt động của các tôn giáo luôn chú trọng các hoạt động củng cố tổ chức, củng cố đức an, thu hút các tầng lớp tín đồ vào các hoạt động tôn giáo, tham gia các hoạt động từ thiện, tranh thủ chính quyền [7, tr. 309-310].

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay - 6

Về y tế: Toàn tỉnh có 270 trạm y tế với 1.305 cán bộ y tế cấp xã; 2.789 nhân viên y tế thôn bản hoạt động ở 2.789 khu dân cư đạt 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế, đã và đang đi vào hoạt động có hiệu quả. Theo báo cáo của Sở Y tế hiện nay 100% trạm y tế cơ sở có tủ thuốc hoạt động và hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn. Tuy vậy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Hiện nay trên toàn tỉnh mới có 60/270 trạm y tế cấp xã có bác sĩ tại chỗ, nhưng chủ yếu tập trung ở các phường, thị trấn.

Về sản xuất công nghiệp: Phú Thọ là một trong những tỉnh có nền công nghiệp sớm và nay vẫn là một trong những tỉnh có cơ cấu công nghiệp tiến bộ. Đã hình thành tam giác công nghiệp mang tính đa dạng như: Khu công nghiệp Việt Trì, Lâm Thao, Bãi Bằng, Thanh Ba, Hạ Hòa. Tuy khu công nghiệp Việt Trì đã và có phần lạc hậu, cần sớm được thay đổi thiết bị, công nghệ. Các khu công nghiệp mới xây dựng đều phát huy tốt, làm ăn có lãi và nộp đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước.

Về thương mại - du lịch: Phú Thọ là tỉnh giầu tiềm năng du lịch, đền thờ Hùng Vương là điểm du lịch có một không hai trong cả nước và còn nhiều khu di tích lịch sử, khu du lịch nổi tiếng khác cần được đầu tư thích đáng và khai thác có hiệu quả.

Toàn tỉnh có 17 đảng bộ trực thuộc với tổng số 58.268 đảng viên sinh hoạt tại 779 tổ chức cơ sở đảng.

2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ (nhiệm kỳ 1999-2004)

2.2.1. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt chính quyền

cấp xã


Đầu nhiệm kỳ tỉnh Phú Thọ có 270 xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).

Thực hiện Nghị định số 39/2002/NĐ-CP ngày 08/4/2002 của Chính phủ, tháng 4/2002 tỉnh Phú Thọ thành lập phường Bến Gót. Tính đến thời điểm 01-6-2003 tỉnh Phú Thọ có 271 xã, phường, thị trấn.

a) Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND cấp xã


Trong tổng số 271 Chủ tịch HĐND cấp xã có 24 đồng chí hoạt động chuyên trách; 247 đồng chí hoạt động kiêm nhiệm (trong đó có Bí thư Đảng ủy xã, phường, thị trấn kiêm nhiệm là 237 đồng chí; có 14 đồng chí là huyện ủy viên; 10 đồng chí là Phó bí thư, Thường trực Đảng ủy xã, phường, thị trấn kiêm nhiệm).

- Về cơ cấu


+ Nữ: 16 (= 5,9%).


+ Nam: 25 người (= 94,1%).


+ Là dân tộc ít người: 49 (= 1,48% tăng 1,24% so với khóa trước).


+ Là người công giáo: 4 (= 1,48%).


(Số chủ tịch HĐND là người dân tộc ít người, là người công giáo đều thuộc các xã miền núi).

+ Tái cử: 155 (= 57,2%).


+ Có 31 người (= 11,44%) là cán bộ, công chức nhà nước về hưu và 174 người (= 64,21%) là bộ đội xuất ngũ tham gia làm chủ tịch HĐND cấp xã.

- Về độ tuổi


+ Tuổi từ 40 trở xuống có 20 người (= 7,38%).


+ Từ 51- 55 tuổi có 50 người (= 18,45% giảm 3,98% so với khóa trước.


+ Trên 55 tuổi có 1 người (= 0,37%).

Số còn lại là ở độ tuổi 41- 50.


Tuổi bình quân của Chủ tịch HĐND xã, phường, thị trấn trong khóa 1999-2004 có cao hơn khóa trước: Các xã, phường, thị trấn vùng đồng bằng bình quân 44,2 tuổi (khóa cũ là 42 tuổi); các xã, thị trấn miền núi bình quân 45,5 tuổi (khóa cũ là 44,9 tuổi).

- Trình độ văn hóa:


THCS: 97 người (= 35,79%); PTTH: 174 người (= 64,21%).


- Trình độ lý luận chính trị:


+ Cao cấp: 3 người (= 1,11% đều ở các xã, phường, thị trấn vùng đồng bằng.


+ Trung cấp: 173 người (= 63,84% tăng 0,5% so với khóa trước). Số còn lại là trình độ lý luận chính trị sơ cấp.

- Trình độ chuyên môn:


+ Đại học 18 người (= 6,64%).


+ Trung cấp: 57 người (= 20,03% tăng 1,48% so với khóa trước).


+ Sơ cấp 44 người (= 16,24% tăng 12,97% so với khóa trước); chưa qua đào tạo 152 người (= 56,09% giảm 11,57% so với khóa trước).

Trong số Chủ tịch HĐND cấp xã chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chỉ có 28 người thuộc các xã đồng bằng, số còn lại là ở các xã miền núi.

+ Đã được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước: 100.


+ Đã được bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế: 29 người (= 10,7%).


b) Phó chủ tịch HĐND cấp xã


Trong tổng số 271 Phó chủ tịch HĐND cấp xã có 256 người hoạt động chuyên trách, 15 người là Thường trực Đảng ủy xã hoạt động kiêm nhiệm.

- Về cơ cấu:


+ Nữ: 32 người (= 11,81%).


+ Nam: 239 người (= 88,19%).


+ Là người dân tộc ít người: 49 (= 18,08%).

+ Là người công giáo: 8 (= 2,95%, đều thuộc các xã miền núi, tăng 0,58% so với khóa trước).

+ Là cán bộ, công chức nhà nước về hưu và là bộ đội xuất ngũ tham gia làm Phó chủ tịch HĐND cấp xã: 146 người (= 53,87%).

- Về độ tuổi:


+ Dưới 40 tuổi: 79 người (= 29,15% tăng 4,1% so với khóa trước).


+ Từ 41-50 tuổi: 170 người (= 62,73% tăng 8,45% so với khóa trước).


+ Từ 51-51 tuổi: 22 người (= 8,12% giảm 12,55% so với khóa trước). Không có người trên 55 tuổi (khóa trước 0,88%).

Như vậy ta thấy đội ngũ Phó chủ tịch HĐND cấp xã nhiệm kỳ 1999-2004 có độ tuổi trẻ hơn so với nhiệm kỳ 1994-1999.

- Trình độ văn hóa:


Tiểu học có 1 người (= 0,37% giảm 0,5% so với khóa trước, thuộc xã miền núi); THCS: 121 người (= 44,65%); PTTH: 149 người (= 54,98%).

- Trình độ lý luận chính trị:


+ Trung cấp: 132 người (= 48,71% tăng 7,79% so với khóa trước).


+ Sơ cấp: 139 người (= 51,29%).


- Trình độ chuyên môn:


Đại học: 15 người (= 5,54%); Trung cấp: 24 người (= 8,86%); Sơ cấp: 52 người

(= 19,19%).


Còn lại 190 người (= 66,42%) chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, trong đó có 147 người thuộc các xã miền núi. So với khóa trước giảm 6,73%.

+ Đã được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước: 100%.


+ Đã được bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế: 12 người (= 4,43%)


c) Chủ tịch UBND - Phó chủ tịch UBND cấp xã


Tính đến 01-6-2003 có 271 Chủ tịch UBND cấp xã.

- Về trình độ:


+ Trình độ đại học: 26 (= 9,59% trong đó có 13 đại học nông nghiệp, 7 bằng đại học quản lý kinh tế, 6 đại học chính trị).

+ Trình độ trung cấp 209 (= 77,12%).


Có 36 người chưa qua đào tạo ở bất kỳ lĩnh vực nào.


d) Phó chủ tịch UBND cấp xã


Có 271 người, trong số đó:


+ Trình độ đại học: 14 người (= 5,17% trong đó có 8 đại học nông nghiệp; 5 đại học quản lý kinh tế; 1 đại học kỹ thuật).

+ Trình độ trung học: 152 (= 156,1%).


Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt chính quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ nhìn chung vẫn còn nhiều điểm bất cập. Tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức quản lý kinh tế còn ở mức độ cao.

Trong tổng số 1.084 cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có: 73 đại học; 436 trung cấp; 96 sơ cấp. Còn lại 329 người chưa qua bất cứ một chương trình đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nào cả. Trong số 73 người có bằng đại học chỉ có 2 đại học luật; 7 cử nhân chính trị, còn phần đông là đại học nông nghiệp (36 người). Với mặt bằng về trình độ đã qua đào tạo của cán bộ chủ chốt của chính quyền cấp xã như trên, dù nhiệt tình cách mạng, trách nhiệm của cán bộ cao đến đâu cũng không thể không ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động, đến năng lực quản lý, điều hành công việc của chính quyền cấp xã, những lúng túng, va vấp, vi phạm trong hoạt động quản lý là điều khó tránh khỏi.

Trong khi đó quá trình bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã lại chỉ quan tâm đến bồi dưỡng về quản lý nhà nước (100%), thì chỉ có 41 người (= 0,37%) được bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế.

Trình độ qua đào tạo của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã đã rất thấp lại phân bố không đồng đều giữa các vùng, các địa phương trong tỉnh. Trong số 73 đại học thì Thành phố Việt Trì chiếm đến 18 người. Số còn lại thuộc 11 huyện, thành thị.

Chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ còn tồn tại những bất cập, hạn chế nêu trên chủ yếu bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là: Do thiếu ăn khớp giữa đào tạo và sử dụng. Cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã hình thành do cơ chế Đảng cử, dân bầu. Việc trúng cử vào HĐND cấp xã và bốn chức danh chủ chốt ở cấp xã hiện nay và có thể lâu dài về sau còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trong đó có những yếu tố phải kể đến đó là quan hệ và cách cư xử với dân; ảnh hưởng của các dòng họ lớn hay nhỏ (yếu tố này ở xã, thị trấn rất hay gặp); tính cục bộ trong các thôn, xóm... Do đó, có thể có những cán bộ có phẩm chất đạo đức, có trình độ, năng lực nhưng không trúng cử. Cũng chính vì thế mà số cán bộ được đào tạo thì nhiều, mà trong số cán bộ chủ chốt đương nhiệm lại rất ít người qua đào tạo. Cũng chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề sử dụng cán bộ cấp xã sau khi được đưa đi đào tạo. Chính vì điều đó cho nên chưa có một số liệu chính xác là có bao nhiêu cán bộ cấp xã sau khi được đưa đi đào tạo, về lại không trúng cử, không được sử dụng phải quay trở về lao động sản xuất. Nhưng có một thực trạng mà dễ nhận thấy, đó là tâm trạng lo lắng của đội ngũ cán bộ cấp xã khi được đưa đi đào tạo tập trung dài hạn. Cán bộ không yên tâm học tập, không muốn đi học tập trung, dài hạn vì sợ khi trở về không được sử dụng. Cho nên, họ đều chọn hình thức đi học tại chức, bồi dưỡng ngắn ngày để không phải bàn giao công tác.

Sự không ổn định trong công tác cùng với tâm lý "nay làm, mai nghỉ" nhất là đối với các chức danh phải qua bầu cử. Do đó, cán bộ chưa coi việc đi học nâng cao trình độ là một nhu cầu tự thân, là một động lực để làm việc lâu dài, ổn định. Sau khi Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức có hiệu lực, đồng thời Chính phủ cũng ban hành được những quy định phù hợp đây sẽ là động lực thúc đẩy đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã quyết tâm nâng cao trình độ, năng lực.

Hai là: Do thiếu những tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng đối với các chức danh chủ chốt. Tỉnh cần có quy định cụ thể, rõ ràng đối với các chức danh cán bộ chính quyền cấp xã về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn tối thiểu cần phải có để được ứng cử, bầu cử vào đại biểu HĐND trên cơ sở vận dụng quy định chung về tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt cấp xã. Thực tế ở tỉnh Phú Thọ cho thấy một số xã, nhất là các xã ở miền núi, nếu căn cứ

vào tiêu chuẩn chung thì khó có thể có đủ người tham gia ứng cử hoặc đề cử. Tình huống ấy đòi hỏi phải có sự vận dụng nhưng lại thiếu quy định cụ thể nên rốt cuộc việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ thiếu căn cứ và các nơi vận dụng rất khác nhau.

Ba là: Do thiếu quy hoạch, kế hoạch trong việc đào tạo cán bộ. Do thiếu quy hoạch, kế hoạch đào tạo nên vẫn còn tình trạng đào tạo tràn lan, đại trà miễn là có một bằng cấp bất kể việc học tập đó có phục vụ cho công việc cụ thể đang làm hay không. Nếu không làm tốt vấn đề này thì việc đào tạo cán bộ sẽ không đạt mục tiêu là nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, mà còn gây lãng phí cho ngân sách nhà nước.

Ngày 25 tháng 10 năm 2001 UBND tỉnh Phú Thọ đã tổ chức cuộc thi vòng chung khảo Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn giỏi lần thứ nhất. Tham dự cuộc thi có 26 thí sinh là những Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn được lựa chọn qua vòng sơ khảo của 12 huyện, thành thị trong tỉnh. Nội dung cuộc thi gồm ba phần: Lý thuyết, xử lý tình huống và năng khiếu. Phần lý thuyết có 50 câu hỏi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng; mối quan hệ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị ở cơ sở.

Phần xử lý tình huống có 36 câu hỏi xoay quanh phương pháp giải quyết, cách thức xử lý những vụ việc thường xảy ra ở các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Phần năng khiếu do thí sinh tự biên, tự trình diễn với chủ đề về công tác quản lý, điều hành của Chủ tịch UBND cấp xã.

Qua thực tiễn cuộc thi Chủ tịch xã, phường, thị trấn giỏi lần thứ nhất cho thấy trình độ, năng lực của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ còn nhiều bất cập. Sự hiểu biết về pháp luật, trước hết là những luật có liên quan đến quản lý nhà nước ở cấp xã của Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong quá trình quản lý, khi gặp những tình huống, những vụ việc rắc rối không đề ra được phương án giải quyết tối ưu, đúng quy định của pháp luật.

Thông qua cuộc thi cũng cho thấy có sự chênh lệch cả về nhận thức, năng lực giữa Chủ tịch UBND các xã miền núi so với các xã, phường, thị trấn đồng bằng. Trong

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí