Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank thời kỳ khủng hoảng kinh tế - 2

Những hoạt động này chính là những nghiệp vụ đầu tiên cơ bản nhất của ngân hàng nói chung là huy động vốn và cho vay vốn. Sự kết hợp hai nghiệp vụ cơ bản này đã tạo nên những ngân hàng thương mại đầu tiên.

1.2 Khái nim ngân hàng, ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mi

Ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vậy mà vẫn có nhiều sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa về ngân hàng.

Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Theo luật pháp của Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Trong Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam 1997 (bổ sung, sửa đổi năm 2004), khái niệm ngân hàng cũng được giải thích khá rõ, theo đó “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng, bao gồm hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” [6].

Về cơ bản, nội dung của khái niệm ngân hàng quy định trong luật pháp của Mỹ và trong Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam giống nhau ở điểm ngân hàng là nơi nhận tiền gửi, và sau đó sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cũng như cung cấp các dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, trong luật pháp của Mỹ có quy định rõ cho vay thương mại cũng là một hoạt động của ngân hàng, trong khi đó ở Việt Nam đối tượng kinh doanh của ngân hàng thường được nói đến là tiền tệ.

Trong hệ thống ngân hàng gồm có ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại với các chức năng và nhiệm vụ khác nhau. “Ngân hàng trung ương là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm các dịch vụ tiền tệ cho chính phủ” [7]; “Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

Ngân hàng trung ương giữ vai trò quản lý các ngân hàng thương mại thể hiện qua một số cách. Một, ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng thương mại. Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như đối với những thân chủ có quan hệ mua bán với nhau và cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Hai, ngân hàng trung ương quản lý các khoản dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng thương mại. Dự trữ bắt buộc là tiền mặt và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thương mại phải lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng mình hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được cho vay hết. Bên cạnh đó, ngân hàng trung ương còn thực hiện vai trò “cứu cánh cuối cùng” khi các ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng bị rút tiền ồ ạt

và không thể huy động vốn vay từ nguồn nào khác.1

1.3 Các chc năng cơ bn ca ngân hàng thương mi

Ngân hàng là tổ chức chuyên nghiệp trong việc tạo lập và cung cấp các dịch vụ quản lý tài chính cho các cá thể, hộ gia đình và các doanh nghiệp, đồng thời còn thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế (xem hình 1-1).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Hình 1 1 Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay 1 Lê Vinh Danh 1

Hình 1 - 1: Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay




1 Lê Vinh Danh (1996), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của NHTW, NXB Chính Trị Quốc Gia, [32- 66]; GS.TS Lê Văn Tư (2004), Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.

Nguồn: Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.


Thực sự ngân hàng đã trở thành “bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại. Việc hợp nhất các dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán… dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh; là Allginanz ở Đức; và là Bancassurance ở Pháp [12].

2 Hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng thương mại


2.1 Khái nim vDoanh nghip nhvà va

Mỗi quốc gia có quy định khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - chính trị của các quốc gia đó. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã quy định về việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta theo hai chỉ tiêu là vốn và lao động: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.

Nghị định cũng nêu cụ thể các đối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm:

- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân);

- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước;

- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã;

- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.

Cơ sở xác định vốn và lao động:

- Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh nghiệp đã đăng kí với cơ quan quản lí lao động và có tham gia đóng bảo hiểm xã hội (không bao gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời vụ, hợp đồng công việc).

- Vốn đăng kí: đối với DNNN là vốn điều lệ được nhà nước cấp, đối với các doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh doanh, giấy phép đầu tư.

2.2 Vai trò ca các doanh nghip nhvà va trong nn kinh tế thtrường

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một thành phần kinh tế năng động có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay, khối doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm ưu thế trên nhiều phương diện.

DNNVV chiếm tỷ lệ cao về số lượng doanh nghiệp, về thu hút lao động và về đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước

Do có nhiều lợi thế như: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công ty; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với chi phí quản lý thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao; có khả năng thích ứng với nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng… nên số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong những năm qua phát triển khá nhanh. Theo con số thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 6/2008 nước ta có 349,305 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 93.96% trên tổng số doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm đóng góp khoảng 40% GDP của cả nước, thu hút khoảng 50.13% tổng số lao động trong doanh nghiệp, vốn chiếm 28.92%, doanh thu chiếm 22.07%, lợi nhuận chiếm 11.78% và nộp ngân sách chiếm 17.46%.

Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là nửa cơ giới, lao động sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, hải sản, xây dựng và giao thông vận tải... nên có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều việc làm cho xã hội và tăng thu nhập bảo đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn với kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất và sử dụng công nghệ người máy đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực xã hội.

DNNVV đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được

Ngày nay, trong thực tế tiêu dùng xã hội có nhiều mặt hàng mà người tiêu dùng yêu cầu về chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn với dây truyền sản xuất chuyên môn hóa cao không thể đáp ứng được; trái lại các doanh nghiệp nhỏ và vừa do quy mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động linh hoạt nên có khả năng đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng.

DNNVV có thế mạnh trong lĩnh vực lưu thông phân phối sản phẩm

Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải thông qua mạng lưới phân phối trung gian. Công việc lưu thông phân phối hầu hết là do các đại lý, cửa hàng thương nghiệp dịch vụ bán buôn và bán lẻ đảm nhận với những ưu điểm như: phân tán rộng, vốn đầu tư nhỏ và tận dụng cơ sở hạ tầng của gia đình sẵn có nên chi phí lưu thông thấp.

DNNVV có vai trò quan trọng trong sản xuất, chế biến hàng hóa xuất khẩu

Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng truyền thống do các doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả thành phần kinh tế hộ gia đình sản xuất chế biến chiếm tỷ trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre, sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may mặc...

DNNVV có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện có văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ của đất nước, kể cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như ở vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng.

2.3 Khái nim tín dng doanh nghip nhvà va trong các NHTM

Tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa được hiểu đơn giản là hoạt động tín dụng hay các khoản tín dụng mà các ngân hàng thương mại cấp cho khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, được phân chia dựa trên tiêu chí là đối tượng khách hàng.

Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng là: “Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” [14]. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có một số đặc trưng sau:

Thứ nhất, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng được chuyển giao theo hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản, động sản). Thứ hai, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Thứ ba, sự hoàn trả trong quan hệ tín dụng là bắt buộc và không kèm theo bất cứ một điều kiện nào, đó là sự hoàn trả vô điều kiện. Thứ tư, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát).


Hình 1 2 Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng 2 4 Quy trình tín d ụ ng 2

Hình 1 - 2: Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng


2.4 Quy trình tín dng doanh nghip nhvà va

Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng, trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn có tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Quy trình tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là quy trình tín dụng được thiết kế riêng nhằm áp dụng cho việc cấp

tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nói chung, các quy trình tín dụng đều có năm bước cơ bản giống nhau, đó là:

1. Hướng dẫn và thiết lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng

2. Phân tích tín dụng

3. Quyết định tín dụng

4. Giải ngân

5. Giám sát tín dụng, thu nợ và thanh lý tín dụng.

Quy trình tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò to lớn trong việc hạn chế và kiểm soát rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một quy trình tín dụng hợp lý sẽ hướng dẫn cho các nhân viên tín dụng và các bộ phận có liên quan thực hiện việc cho vay nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Một số vai trò thường thấy của quy trình tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với hoạt động quản trị của ngân hàng là: Quy trình tín dụng phân định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, phòng ban trong hoạt động cho vay, do đó mỗi nhân viên đều biết được trách nhiệm và quyền hạn của mình, từ đó có thái độ đúng đắn trong công việc. Bên cạnh đó, quy trình tín dụng giúp định hướng cho việc xây dựng mô hình tổ chức thích hợp tại ngân hàng và công tác quản trị nhân sự tại ngân hàng sẽ được điều chỉnh kịp thời cho hợp lý và hiệu quả nhất. Hơn nữa, một quy trình tín dụng được quy chuẩn hóa, được thiết kế rõ ràng và thích ứng với từng nhóm khách hàng sẽ giúp cho việc giao dịch với khách được thuận tiện, nhanh chóng, tránh những thiếu sót, nhầm lẫn, mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Và cuối cùng, quy trình tín dụng còn là cơ sở để kiểm soát tiến trình cấp tín dụng và có những điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thực tiễn.

Những vai trò nêu trên đã cho thấy việc thiết lập một quy trình tín dụng cẩn trọng, khoa học và hợp lý trong hoạt động cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng là vô cùng cần thiết. Các ngân hàng đều cần đầu tư kĩ lưỡng cho việc thiết lập quy trình tín dụng riêng của ngân hàng mình.

3 Phân loại tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa

Tương tự như việc phân loại tín dụng ngân hàng nói chung, có nhiều căn cứ để phân loại tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tùy theo mục đích phân loại.

Căn cứ vào thời hạn tín dụng

- Tín dụng ngắn hạn.

- Tín dụng trung hạn.

- Tín dụng dài hạn.

Căn cứ vào mục đích cấp tín dụng

- Tín dụng xuất khẩu.

- Tín dụng nhập khẩu.

Ngoài ra, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa còn được phân loại theo phương pháp hoàn trả và theo khả năng bao tín dụng.

4 Vai trò của tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Đối với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng lại chiếm giữ một vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu nhập từ dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập ngân hàng. Bởi vậy, các ngân hàng luôn muốn tìm mọi biện pháp nhằm tăng nguồn thu từ tín dụng đồng thời đảm bảo giảm thiểu hóa rủi ro. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một lực lượng đông đảo trong nền kinh tế, là một thành phần kinh tế năng động và đang phát triển với tốc độ rất nhanh chóng. Do vậy, thị trường tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là một thị trường tín dụng giàu tiềm năng. Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ giúp cho các ngân hàng tăng doanh thu từ tín dụng mà đồng thời sự đa dạng hóa về khách hàng sẽ giúp ngân hàng phân tán và hạn chế rủi ro, rất phù hợp với mục tiêu của ngân hàng.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, tín dụng ngân hàng cũng có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa thể hiện ở bốn điểm sau:

Thứ nhất, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp để duy trì liên tục quá trình sản xuất đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó kích thích tiết kiệm và cũng là phương tiện cho đầu tư phát triển, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.

Thứ hai, tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, thúc đẩy sự chuyên môn hóa và tăng cường quy mô hoạt động của các doanh nghiệp. Hoạt động

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí