độ thực hiện làm chậm thời gian ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân.
Thứ tư, năng lực tài chính của PTF còn thấp
Đối với Công ty Tài chính Bưu Điện hiện nay thành phần chính của vốn tự có là vốn điều lệ, với số vốn điều lệ là 70 tỷ đồng do Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam cấp từ ngày đầu thành lập tháng 10/1998, cho đến nay Công ty Tài chính Bưu Điện đã nâng mức vốn điều lệ lên 500 tỷ đồng và dự định số vốn điều lệ sẽ nâng lên 1000 tỷ đồng trong thời gian tới khi công ty tiến hành cổ phần hoá. Như vậy trong hơn 10 năm qua, tiềm lực tài chính của Công ty Tài chính Bưu Điện liên tục tăng trưởng, tuy nhiên so với các Công ty Tài chính khác thì quy mô vốn điều lệ của Công ty Tài chính Bưu Điện còn quá khiêm tốn và quy mô này càng nhỏ bé hơn nếu đem so sánh với các ngân hàng thương mại.
Bảng 2.1 sẽ cho thấy rõ hơn tương quan so sánh về quy mô vốn điều lệ của Công ty Tài chính Bưu Điện với các Công ty Tài chính khác
Bảng 2.1: Vốn điều lệ của một số Công ty Tài chính
Đơn vị: Tỷ đồng
Tên Công ty | Vốn điều lệ | |
1 | Tập đoàn Tài chính cổ phần Dầu khí | 5000 |
2 | Công ty Tài chính cổ phần Điện lực | 2500 |
3 | Công ty Tài chính Tàu thủy | 1323 |
4 | Công ty Tài chính cổ phần Vinaconex Viettel | 1000 |
5 | Công ty Tài chính ThanKhoáng sản | 1000 |
6 | Công ty Tài chính Cao su | 1000 |
7 | Công ty Tài chính Bưu Điện | 500 |
8 | Công ty Tài chính cổ phần Sông Đà | 500 |
9 | Cty TNHH một thành viên Tài chính Prudential Việt Nam | 370 |
10 | Công ty TNHH một thành viên Tài chính Toyota Việt Nam | 300 |
11 | Công ty tài chính Dệt may | 300 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Và Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện
- Khảo Sát Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện
- Đánh Giá Hoạt Động Tín Dụng Tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện
- Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện - Nguyễn Trường Giang - 9
- Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện - Nguyễn Trường Giang - 10
Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.
Công ty Tài chính cổ phần Xi măng | 300 |
Nguồn: website http://www.sbv.gov.vn
Qua bảng số liệu trên có thể thấy mức vốn điều lệ của Công ty Tài chính Bưu Điện tuy có lợi thế hơn một số công ty tài chính nước ngoài nhưng vẫn còn là một khoảng cách khá xa so với một số công ty tài chính lớn hiện nay.
Thực tế này đặt Công ty Tài chính Bưu Điện trước một thử thách lớn vì quy mô vốn điều lệ lớn sẽ giúp Công ty có khả năng chống đỡ với những rủi ro trong hoạt động tài chính tiền tệ. Điều này ngày càng trở lên quan trọng khi môi trường kinh doanh có nhiều biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập. Đây thực sự là một bất lợi lớn của PTF trong cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác vì hiện nay rất nhiều các quy định của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Công ty tài chính đều liên quan đến nguồn vốn tự có. Với quy mô vốn tự có nhỏ, PTF khó đầu tư để mở rộng chi nhánh, bị hạn chế trong việc cho vay và huy động vốn, vì thế dẫn đến khó khăn trong hoạt động tín dụng của mình. Điều này sẽ khiến cho uy cho chất lượng hoạt động tín dụng của PTF không đạt được hiệu quả cao ,uy tín của PTF trên thị trường tài chính bị giảm sút và Công ty sẽ rất khó khăn trong quan hệ với các khách hang.Vì vậy trong thời gian tới Công ty Tài chính Bưu Điện cần có các biện pháp sớm nâng cao vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính ngân hàng
2.2.3.3. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Nền kinh tế chưa phát triển ổn định
Trong những năm gần đây, nền kinh tế
nước ta luôn đạt được sự
tăng
trưởng cao, nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế là rất lớn. Tuy nhiên năm 2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN bị đình trệ, không xuất khẩu được đã ảnh hưởng rất lớn đến tiềm năng phát triển hoạt động cho vay tới đối tượng này.
Bên cạnh đó là sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay có
rất nhiều ngân hàng cổ phần, các tổ chức tín dụng và ngân hàng liên doanh nước ngoài hoạt động tạo nên sự cạnh tranh gay gắt.
Thứ hai, Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện
Hành lang pháp lý cho hoạt động cho vay còn thiếu sót và chưa đồng bộ. NHNN chưa đưa ra các quy định cụ thể đối với cho vay DN và cá nhân tại các công ty tài chính. Các quy định về cho vay nếu đã được ban hành thì còn nhiều bất cập, quy định khắt khe hơn so với các NHTM. Bản thân công ty vẫn đang tự tạo lập cho mình những quy định, điều kiện riêng trong hoạt động.
Sự phối hợp giữa cơ quan tòa án và ngân hàng nhà nước còn chưa được chặt chẽ, việc xác định giá trị tài sản liên quan đến vốn vay và xử lý tài sản thế chấp còn nhiều bất cập cũng là nhân tố khiến cho rủi ro cho vay tăng lên. Những tranh chấp giữa công ty và khách hàng nếu phải đưa nhau ra tòa sẽ rất phiền phức và tốn kém, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của công ty. Do vậy, môi trường pháp lý chưa ổn định cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho hoạt động cho vay của công ty vẫn chưa phát triển mạnh
b. Nguyên nhân chủ quan
Từ phía Công ty tài chính bưu điện
Thủ tục vay vốn quá phức tạp. Để đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động của mình các công ty tài chính luôn đưa ra những điều kiện vay vốn rất khắt khe. Trong khi đó năng lực tài chính của các DN còn yếu nên khả năng tiếp cận nguồn vốn vay là rất khó.
Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của đội ngũ nhân viên của công ty còn hạn chế. Cán bộ tín dụng của PTF đều là những người năng động, nhiệt tình, ham hiểu biết và có trách nhiệm nghề nghiệp cao. Bản thân mỗi cán bộ tín dụng không ngừng nỗ lực nâng cao trình độ và kỹ năng đặc biệt trong thẩm định và quản lý các món vay, đảm bảo chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, kỹ năng mà cán bộ tín dụng còn thiếu là khả năng tiếp thị sản phẩm công ty.
Hoạt động Marketing của công ty chưa được hiệu quả như mong đợi. Các kế hoạch marketing của công ty nói chung chưa có một chiến lược dài hạn, còn nhiều yếu kém và thụ động. Khách hàng chủ yếu của PTF là các khách
hàng quen thuộc. Việc khuếch trương hình ảnh, quảng cáo, tiếp thị, tìm
khách hàng mới còn nhiều hạn chế. Các tiện ích khi sử dụng sản phẩm của công ty chưa được quảng bá rộng rãi. Chính điều này đã kìm hãm phần nào sự phát triển của hoạt động cho vay doanh nghiệp và cá nhân tại PTF. Bên cạnh đó, chính sách khách hàng, và chính sách liên kết với các nhà thầu xây dựng, các doanh nghiệp vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng, gây khó khăn cho cán bộ, nhân viên trong việc triển khai hoạt động của mình.
Từ phía khách hang
Năng lực kinh tế của các Doanh nghiệp còn rất yếu kém. Các Doanh nghiệp thường thiếu những chuyên gia tư vấn nên rất khó để lập ra những dự án vay vốn khả thi. Nếu dự án đó khả thi thì lại không đủ sức thuyết phục vì
thế ngân hàng rất khó chấp nhận cho vay vốn. Vì cho vay những dự án
không khả thi thì khả năng thu hồi vốn là không có, không đảm bảo tính an toàn cho hoạt động của công ty tài chính. Bên cạnh đó, các Doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được các quy định về tài sản đảm bảo khi vay vốn.
Các DN chủ yếu tiếp cận nguồn vốn truyền thống từ các Ngân hang thương mại. Mặc dù trong những năm gần đây các công ty tài chính phát triển khá nhanh nhưng do suy nghĩ của các Doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn là nghĩ ngay đến việc vay vốn các Ngân hàng thương mại nên việc thu hút mở rộng mạng lưới khách hàng này còn gặp nhiều khó khăn.
Chương III : Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại công ty Tài chính Bưu điện
3.1. Định hướng phát triển của công ty trong những năm tới
3.1.1. Xu hướng phát triển của nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới, nhất là thời điểm hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập Tỏ chức thương mại thế giới (WTO). Sau nhiều năm chuyển đổi cơ chế kịp thời, đất nước đã có những chuyển mình đáng kể. Theo cùng với sự chuyển mình đó, cả nước đang tích cực đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển thêm các doanh nghiệp Nhà nước ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tập đoàn Nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Điều này tạo thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của các trung tâm tài chính nói chung và các công ty tài chính trong Tập đoàn.
Tuy nhiên môi trường kinh doanh về cả vĩ mô và vi mô còn nhiều bất cập. Để tạo điều kiện trong quá trình hoạt động và phát triển của các công ty Tài chính trong Tổng công ty, chúng ta còn phải giải quyết nhiều vấn đề tồn tại cũng như tạo ra các yếu tố kích thích tương ứng cho quá trình này.
Hiện nay, chúng ta đang có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn mạnh trên thế giới đang tiến hành đầu tư vào nước ta với tốc độ ngày càng nhanh. Song có cạnh tranh để phát triển là quy luật của xã hội, vì thế điều này càng thúc giục các Tập đoàn của Việt Nam phải có những cố gắng nỗ lực hơn nữa để tạo nên được sức mạnh tài chính nhằm nắm giữ các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế đồng thời đương đầu với các tập đoàn trên thế giới.
3.1.2. Định hướng phát triển và mục tiêu của Công ty Tài chính Bưu điện đến năm 2015
Công ty Tài chính Bưu điện với định hướng ban đầu là thực hiện vai trò
công cụ
hoạt động tài chính của VNPT và kinh doanh trên thị
trường tài chính.
Công ty đã thực hiện tốt nhiệm vụ và từng bước khẳng định vị trí của mình. Đến nay, công ty đã được đảm bảo đủ các cơ chế cần thiết cho loại hình hoạt động tài chính tín dụng và đã làm gần như tất cả những gì được phép. Về tín dụng số vốn thông qua PTF đạt hơn 1000 tỷ đồng, với đối tác là tất cả các ngân hàng thương mại lớn và khách hàng là hơn 100 đơn vị thành viên của VNPT.
Quá trình phát triển của PTF trải qua những giai đoạn khác nhau có những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Đặc biệt trong giai đoạn này khi cả thế giới đang ở trong cuộc đại khủng hoảng thì công ty cần phải có những định hướng rõ ràng để hoạt động phát triển trong những năm tới:
Đầu mối huy động vốn và cho vay: với chức năng cơ bản này, PTF sẽ dần thực hiện được nhiệm vụ của Tập đoàn giao cho là đầu mối huy động vốn. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, chú trọng đến các nguồn vốn có tính chất lâu dài bền vững như phát hành trái phiếu, tín phiếu, huy động từ các tổ chức tài chính, các nguồn vốn nhàn rỗi...để phục vụ các dự án của Tập đoàn. Thông qua nghiệp vụ cho vay theo ủy thác của Tập đoàn. PTF cũng góp phần thực hiện chủ trương chuyển từ quan hệ cấp phát vốn sang quan hệ vay trả với các đơn vị nhằm đạt được kết quả cao hơn cho nguồn vốn đầu tư của Tập đoàn. Để thực hiện tốt chức năng này, hoạt động tín dụng của công ty đóng vai trò rất quan trọng và được PTF đẩy mạnh phát triển vì hoạt động tín dụng là hoạt động sử dụng nguồn vốn, là hoạt động chính của công ty và đem lại lợi nhuận cao nhất.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc giảm bớt các thủ tục đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, thanh quyết toán nhanh nhằm đưa các công trình vào sử dụng, đẩy mạnh các hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như liên doanh, góp vốn, mua cổ phần, quản lý sử dụng và điều hòa tập trung
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, chủ động tham gia kinh doanh trên thị
trường tài chính và tiền tệ trong nước và tiếp tục đầu tư ra thị trường nước ngoài.
Phát triển các định chế tài chính trong tập đoàn nhằm phát huy đối đa năng lực nội sinh thông qua các hoạt động kinh doanh tiền tệ, đầu tư tài chính tiến đến hình thành Ngân hàng Bưu điện trong tập đoàn kinh tế.
Đối với dịch vụ tư vấn, đây được coi là nội dung quan trọng, không chỉ với
việc nâng cao hiệu quả
hoạt động, đào tạo và nâng cao trình độ
cho các
chuyên gia đầu tư tài chính và các nhà quản lý doanh nghiệp, mà còn góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới, tái thiết doanh nghiệp, hỗ trợ đắc lực cho việc quyết định tài trợ vốn hoặc đầu tư vốn.
Những năm tiếp theo mục tiêu của công ty là tiếp tục tập trung và mở rộng thị trường trong Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và các đơn vị thành viên khác. Đồng thời giữ vững và phát triển quan hệ, tạo dựng uy tín với các khách hàng truyền thống của công ty, mở rộng quảng cáo và tiếp thị cho các sản phẩm của công ty.
PTF tiếp tục tập trung vào 3 nhóm hoạt động: đầu tư tài chính, điều hòa vốn và kinh doanh trên thị trường tài chính, trong đó đầu tư tài chính sẽ là hoạt động được quan tâm nhiều nhất. Công ty tiếp tục tăng cường cho vay trung, dài hạn và cho vay đồng tài trợ, ủy thác cho vay để đáp ứng các dự án có nhu cầu vay vốn lớn nhằm mục tiêu phát triển chung của VNPT: đó là đến 2015, VNPT là một tập đoàn kinh tế kỹ thuật có cơ sở hạ tầng thông tin vững chắc, kinh doanh nhiều lĩnh vực với các dịch vụ bưu chính viễn thông và tin học là nòng cốt.
3.2. Biện pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện
ực tài chính, tích cực đa dạng hoạt động huy động vốn tạo ra nguồn cấp tín dụng
3.2.1.1. Tăng quy mô vốn chủ sở hữu
Đề đẩy mạnh hoạt động tín dụng bất kì một tổ chức tài chính dù là Ngân hàng thương mại hay các Công ty tài chính đều phải có vốn. Nâng cao năng lực tài chính của tổ chức thì mới có thể tiến hành các hoạt động tài chính. Hoạt động tín dụng không nằm ngoài qui luật đó. Giải pháp này có thể thực hiện được khi PTF đi chiếm dụng vốn hoặc tăng vốn chủ sở hữu. Ở thời điểm hiện tại, khi nền kinh tế
mới bắt đầu bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và bước đầu có những
chuyển biến tốt thì đối với các tổ chức tài chính, hoạt động huy động vốn là một công việc vô cùng khó khăn. Hầu hết các tổ chức tài chính – ngân hàng đều lựa chọn tăng năng lực tài chính của mình bằng phương pháp nâng vốn chủ sở hữu. Đây là hoạt động có tác dụng kép, vừa thu hút được nguồn vốn khác vừa nâng cao
khả
năng của chính tổ
chức. Vốn chủ sở hữu là yếu tố cơ bản quyết định sức
mạnh tài chính của Công ty Tài chính. Để đảm bảo an toàn hoạt động cũng như khả năng cạnh tranh của mình trước tiên Công ty Tài chính phải đảm bảo có đủ mức vốn chủ sở hữu.Tăn.g vốn chủ sở hữu của Công ty Tài chính Bưu Điện là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quá trình phát triển của công ty. Mặc dù vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng tài sản có nhưng vốn chủ sở hữu lại đóng vai trò then chốt quyết định quyết định quy mô, khả năng cạnh tranh cũng như mức độ chống đỡ bù đắp rủi ro. Với ý nghĩa quan trọng đó, nếu Công ty Tài chính Bưu Điện không có sự thay đổi lớn, tăng trưởng rõ rệt về vốn chủ sở hữu thì bản thân công ty sẽ khó có thể nâng cao năng lực cạnh tranh được. Để tăng vốn chủ sở hữu, Công ty có thể quan tâm đến các biện pháp sau :
Tăng vốn điều lệ: PTF là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, chuyên hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và tín dụng thì năng lực tài chính của Công ty là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu.
Bổ sung lợi nhuận hang năm: Cùng với việc trình lên Tập đoàn phương án tăng vốn điều lệ, Công ty Tài chính Bưu Điện cần chủ động tự phát triển vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận để lại. Mặc dù hiện nay lợi nhuận để lại của công ty còn thấp, tuy nhiên trong giai đoạn tới mức lợi nhuận của công ty sau khi nộp thuế thu nhập và trích lập các quỹ, có thể đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn thì đây chính là nguồn bổ sung tốt nhất. Theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ tài sản tăng tương ứng với vốn chủ sở hữu tăng lên do phần lợi nhuận để lại được coi là tỷ lệ tăng trưởng bền vững. Hay nói cách khác, phương pháp tích luỹ vốn từ lợi nhuận hàng năm là
một trong những cách tốt nhất để Công ty Tài chính Bưu Điện phát triển bền
vững. Để có thể bổ sung vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận thì công ty phải xác định rõ mục tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và mức vốn cần đạt được để quyết định tỷ lệ lợi nhuận giữ lại sau khi đã tính toán các nguồn bổ sung khác.
3.2.1.2. Đa dạng hóa các nguồn vốn huy động
Một trong những điều kiện cần để có thể đẩy mạnh hoạt động tín dụng đó là thu hút được nguồn vốn, không có vốn để cấp tín dụng thì các hoạt động tiếp theo nó cũng không thể diễn ra. Cho nên công tác huy động vốn cần phải được chú ý, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi PTF đang hoạt động chưa thực sự hiệu quả với tư cách là một định chế tài chính của VNPT hỗ trợ các doanh nghiệp trong ngành bưu chính – viễn thong.
Huy động vốn từ VNPT và các đơn vị thành viên