Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện - Nguyễn Trường Giang - 9


 Huy động vốn từ nguồn vốn phát hành trái phiếu của VNPT :

Hiện nay, do bị hạn chế bởi hạn mức tín dụng 15% vốn chủ sở hữu đối với một khách hàng nên PTF đã phải huy động vốn chủ yếu bằng hình thức nhận uỷ thác đầu tư từ các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nguồn vốn này thường có lãi suất cao hơn nhiều so với các nguồn vốn huy động trực tiếp từ các tổ chức và cá nhân. Do vậy, giải pháp quan trọng nhằm gia tăng nguồn vốn tài trợ cho các dự án đầu tư của VNPT và giảm chi phí huy động vốn đối với PTF hiện nay là PTF cần chủ động xây dựng phương án phát hành trái phiếu trình VNPT, trong đó VNPT là chủ thể phát hành trái phiếu, PTF với vai trò là tổ chức nhận uỷ thác phát hành và giải ngân vốn cho các dự án đầu tư của VNPT.

Đây là một hình thức huy động vốn có tính khả thi cao đối với VNPT do VNPT là tổ chức có uy tín trên thị trường, có thể thu hút được lượng vốn lớn với lãi suất thấp thông qua phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu và giải ngân vốn VNPT nên uỷ thác cho PTF, do để quản lý và sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu có hiệu quả thì VNPT cần phải có kế hoạch giải ngân vốn chính xác và kế hoạch quản lý nguồn vốn trả nợ tối ưu, nhưng thực tế thì VNPT lại không có điều kiện để thực hiện do số lượng dự án và lượng vốn đầu tư hàng năm của VNPT là quá lớn.

Trong quá trình thực hiện nhận uỷ thác phát hành trái phiếu và giải ngân vốn, PTF cần liên hệ chặt chẽ với các đơn vị thành viên được uỷ quyền là chủ đầu tư để đảm bảo tiến độ giải ngân vốn phù hợp với thời điểm huy động vốn, định

kỳ báo cáo VNPT về

kế hoạch giải ngân và trả

nợ, đề

xuất các giải pháp với

VNPT nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài ra, PTF cần phải xây dựng kế hoạch quản lý và tái sử dụng nguồn vốn trả gốc định kỳ của các dự án vay vốn từ nguồn phát hành trái phiếu sao cho tối ưu nhất, do các dự án thường trả gốc định kỳ 6 tháng/lần nhưng trái phiếu thông thường chỉ có một ngày đáo hạn duy nhất

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.

 Huy động vốn từ các đơn vị thành viên của VNPT

Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) là một trong các định chế tài chính của VNPT, thường có nguồn vốn nhàn rỗi lớn. Do vậy, PTF cần tiếp xúc với PTI để có thể huy động được nguồn vốn này thông qua hình thức nhận uỷ thác đầu tư để cho vay các dự án của VNPT.

Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện - Nguyễn Trường Giang - 9

Ngoài ra, các đơn vị thành viên hạch toán độc lập trong VNPT, các Công ty cổ phần, liên doanh có vốn góp chi phối của VNPT cũng sẽ là nguồn thu hút vốn


tiềm năng của PTF. Các đơn vị này thường có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng với lãi suất thấp, do vậy PTF có thể huy động vốn từ các đơn vị này dưới hình thức vay vốn hoặc nhận uỷ thác đầu tư.

 Tăng cường huy động vốn từ các tổ chức tài chính

Trong chiến lược phát triển của VNPT đến năm 2020 thì dự kiến nguồn vốn vay tín dụng là 19.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư 19,2%. Như vậy, nguồn vốn vay tín dụng vẫn sẽ là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng thiết yếu đối với VNPT. Tuy nhiên, theo cá nhân tôi, VNPT nên uỷ quyền cho PTF là đầu mối huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, như vậy sẽ tránh được sự quan hệ chồng chéo dẫn đến không hiệu quả. Nếu PTF là tổ chức đầu mối huy động vốn từ các tổ chức tín dụng thì PTF có thể chủ động trong việc đàm phán với các tổ chức tín dụng, giúp VNPT quản lý vốn giải ngân hiệu quả hơn, đồng thời tạo thuận lợi cho PTF trong công tác thẩm tra quyết toán các dự án đầu tư của các đơn vị trong VNPT do PTF đã nắm bắt được rõ quá trình đầu tư, giải ngân vốn của dự án, thẩm định được tính hiệu quả của dự án.

Mặt khác, để gia tăng vốn huy động từ các tổ chức tài chính theo hình thức vay vốn hoặc nhận uỷ thác đầu tư, PTF cần phải có các chính sách đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các tổ chức này. Ngoài các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng Liên doanh, Công ty Tài chính trong nước, PTF cần mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, Quỹ đầu tư, Công ty bảo hiểm vì đây là những tổ chức tài chính có khả năng đáp ứng cao nhu cầu vay vốn đầu tư của VNPT và PTF.

Bên cạnh đó, PTF nên dần tiếp cận với các tổ chức tín dụng nước ngoài thông qua VNPT, để xác lập quan hệ vay vốn cho VNPT và PTF. Hiện nay, việc huy động vốn từ nguồn vốn này còn chưa hấp dẫn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn kiểm soát quản lý chặt chẽ các khoản vay từ nước ngoài nên thủ tục thẩm định, xét duyệt lâu và phải được Chỉnh phủ hay Ngân hàng Nhà nước Việt nam bảo lãnh. Tuy nhiên, nguồn vốn này sẽ là quan trọng đối với VNPT vì đây là

nguồn ngoại tệ mạnh đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, công nghệ từ nước

ngoài, có thể tìm kiếm những nguồn vốn lãi suất thấp, thời hạn vay dài. Với uy tín và danh tiếng VNPT đã tạo lập được trên thị trường, với mối quan hệ đã sẵn có

với các tổ chức tài chính quốc tế trong nhiều năm qua dưới hình thức tín dụng


thương mại (chủ yếu là tín dụng người bán) thì việc tiếp cận, khai thác nguồn vốn này là hoàn toàn có tính khả thi cao.

 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư

PTF nên phát triển hoạt động huy động vốn thông qua hình thức nhận tiền

gửi có kỳ

hạn trên 1 năm của các tổ

chức và cá nhân; phát hành kỳ

phiếu, trái

phiếu để huy động vốn. Trước hết, PTF nên phát huy thế mạnh của mình để triển khai trong phạm vi các đơn vị và CBCNV trong Ngành, từ đó đúc rút kinh nghiệm để mở rộng thực hiện ra bên ngoài. Với giải pháp huy động vốn này thì PTF có thể sử dụng để cho vay các dự án của các đơn vị thành viên hạch toán độc lập trong

VNPT, các công ty cổ phần và liên doanh có vốn góp của VNPT và các đơn vị

ngoài VNPT. Đây chính là một trong những giải pháp có tính chiến lược của PTF và đảm bảo sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với hình thức nhận vốn uỷ thác từ các tổ chức và cá nhân của PTF hiện nay.

Do bị hạn chế về mạng lưới giao dịch nên PTF khó có thể thực hiện trực tiếp được các nghiệp vụ này mà có thể thuê Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện ­ đơn vị thành viên của VNPT, là đại lý nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá cho PTF. Tuy nhiên, để cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác, do PTF là một tổ chức tài chính trung gian mới trên thị trường nên PTF cần tính toán sao cho lãi suất huy động và các quyền lợi của nhà đầu tư khi mua trái phiếu phải đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nhưng vẫn mang lại hiệu quả cho PTF. Và để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này đòi hỏi PTF cần phải có kế hoạch huy động và sử dụng vốn hợp lý.

ất lượng tín dụng, tăng cường khâu thẩm định và dải ngân trong qui trình tín dụng

 Nâng cao chất lượng tín dụng

Từ kinh nghiệm thực tiễn của các Ngân hang thương mại, song song với

việc mở rộng quy mô tín dụng, chất lượng tín dụng là uy tín, là vấn đề sống còn của các tổ chức tín dụng trong điều kiện hiện nay. Đối với PTF, đây cũng phải là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình cung cấp tín dụng cho các khách

hàng, đặc biệt là các đối tượng ngoài VNPT. Để Công ty có thể quan tâm tới một số đề xuất như sau:

giải quyết được vấn đề

này,

Mt là, hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao khả năng thu thập, cập nhật thông tin, xử lý thông tin


phục vụ cho việc thẩm định dự án, đánh giá khách hàng, đánh giá khoản vay, quản lý dư nợ tín dụng.

Hai là, hoàn thiện các quy trình, quy chế cho vay đối với các loại khách hàng và quy trình quản lý tín dụng để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.

Ba là, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, thông qua việc tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng theo các chuẩn mực và thông lệ.

Bn là, thành lập Hội đồng tín dụng để tư vấn cho Ban lãnh đạo PTF phê duyệt tất cả các khoản tín dụng hoặc các khoản cho vay vượt quá một số tiền nhất định, phê duyệt hạn mức tín dụng và lãi suất của các khoản vay; thẩm tra, quyết định việc đánh giá, xếp hạng các doanh nghiệp vay vốn; thẩm tra, quyết định việc đánh giá tài sản bảo đảm nợ vay; nghiên cứu, đề xuất các biện pháp xử lý các khoản nợ xấu nhằm kiểm soát rủi ro trong quy trình cho vay. Thành phần của Hội đồng tín dụng gồm: (1) Giám đốc hoặc Phó giám đốc, (2) Trưởng phòng Tín dụng hoặc cán bộ tín dụng, (3) Một chuyên viên pháp lý (Thư ký hội đồng), (4) Một số chuyên gia trong và ngoài Ngành am hiểu tính chất kinh tế ­ kỹ thuật của dự án (mời theo từng dự án).

Hội đồng tín dụng làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, các thành viên có ý kiến độc lập của mình. Do chức năng của Hội đồng chỉ là tư vấn nên các ý kiến của các thành viên chỉ có giá trị tham khảo. Chủ tịch Hội đồng căn cứ vào ý kiến của các thành viên để xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.

 Tăng cường khâu thẩm định và dải ngân trong qui trình tín dụng

Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định có tính chất quyết định tới hiệu quả cho vay sau này vì kết thúc khâu thẩm định sẽ đưa ra kết quả có chấp nhận cho khách hàng vay hay không. Thẩm định gồm hai bước cơ bản là thu thập thông tin và xử lý thông tin.

 Thu thập thông tin

Việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như phỏng vấn người xin vay, sổ sách ngân hàng, các nguồn thu thập từ các doanh nghiệp, thông qua báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, các nguồn thông tin từ dịch vụ, các cơ quan cung ứng thông tin, và từ các nguồn khác... Hiện nay, có nhiều nguồn thông tin với độ chính xác lẫn lộn nhau. Vì vậy, việc lựa chọn thông tin nào là chính xác là rất khó. Đối với các công ty trong ngành thì thông tin


mà công ty nắm được có thể tốt hơn đối với các doanh nghiệp ngoài ngành. Công ty chủ yếu thu thập thông tin từ phía khách hàng ngoài thông qua phỏng vấn trực tiếp, báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh và cũng có trường hợp ngân hàng cử cán bộ tín dụng tới tận nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên nếu chỉ thu thập nguồn tin từ phía khách hàng thì không có độ tin cậy cao vì chúng ta biết rằng khách hàng muốn vay một cách nhanh chóng nên thường xuyên xảy ra hiện tượng thiếu trung thực khi đưa ra những thông tin về mình. Vì vậy mà Công ty cần mở rộng phạm vi thu thập những nguồn thông tin khác nhưng phải biết chọn lọc để tránh hiện tượng “loãng thông tin” PTF cần chú ý đến những nguồn sau:

Thứ nhất, Cần chú trọng tới việc cử cán bộ có kiến thức nghiệp vụ ngân hàng và có kiến thức chuyên môn của ngành nghề lĩnh vực mà khách hàng đang kinh doanh, đến tận địa bàn sản xuất của doanh nghiệp. Kết hợp với những thông tin do khách hàng cung cấp như báo cáo tài chính tình hình sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, Công ty cần phải thường xuyên theo dõi những thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, hệ thống thông tin này được đánh giá là đáng tin cậy vì do Nhà Nước quản lý. Tuy nhiên, hệ thống này mới được thành lập nên chưa hoàn thiện và đầy đủ cả về chất lượng và số lượng.

Thứ ba, Công ty cần có bộ phận riêng quản lý các hồ sơ giấy tờ của khách hàng kể cả những khách hàng tạm thời không có quan hệ tín dụng với Công ty. Đây cũng sẽ là nguồn thông tin quan trọng trong nhiều trường hợp cần thiết.

Thứ tư, Chú trọng nguồn thông tin đại chúng vì đây là nguồn thông tin khách quan nhất. Mặt khác, Công ty cũng cần có sự hợp tác và trao đổi thường xuyên với các tổ chức tín dụng khác, các cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương và giữ tốt mối quan hệ với khách hàng vì đôi khi họ cũng có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin quý báu.

Để có thể thu thập các thông tin, em xin đề xuất một số phương pháp thu thập thông tin sau:

­ Phương pháp thu tin qua mạng máy tính nối mạng với các tổ chức tín dụng khác.


­ Thu thập thong tin qua quan hệ với các tổ chức tín dụng khác và các doanh nghiệp cùng ngành bưu chính – viễn thông.

­ Thu tin qua đường công văn từ các cơ quan quản lý của Nhà Nước hoặc chính quyền địa phương thuộc địa bàn hoạt động của Ngân hàng cho vay.

­ Phương pháp thu tin trực tiếp từ doanh nghiệp, gặp gỡ trực tiếp để phỏng vấn lãnh đạo doanh nghiệp hoặc gián tiếp qua điện thoại, fax để chuyển đến doanh nghiệp gửi về Ngân hàng các thông tin dưới dạng văn bản.

­ Phương pháp thu thập thông tin từ các cơ quan thông tin báo chí, đây là phương pháp đơn giản nhưng rất hữu hiệu, thông tin có nguồn gốc xác thực, đa dạng, phong phú.

­ Phương pháp thu thập thông tin qua các mạng thông tin điện tử như mạng Internet, Vinanet, mạng trí tuệ Việt Nam của FPT v.v...

Như vậy, công viêc thu thập thông tin rất phức tạp, vì vậy Công ty nên thiết lập một bộ phận thông tin tín dụng cho riêng mình. Điều này không chỉ làm tốt cho khâu thẩm định mà giúp ích cho cả quá trình cho vay của Công ty, trong việc hạn chế rủi ro tín dụng nâng cao hiệu quả công tác cho vay.

 Phân tích thông tin tín dụng

Khi có được các thông tin cần thiết thì việc lựa chọn khách hàng là rất quan trọng. Lâu nay trong thực tế thường chỉ có khách hàng lựa chọn ngân hang hoặc tổ chức tín dụng, ngân hàng thực hiện tín dụng đối với hầu hết khách hàng đến với mình. Vì thế khi xem xét thong tin công ty phải xác định rằng thực ra ở đây phải là quan hệ hai chiều: Khách hàng lựa chọn công ty và công ty lựa chọn khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro cho Công ty, đảm bảo vốn cho vay ra thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của công ty. Khi lựa chọn khách hàng, Công ty cần chú ý chọn khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả nợ đúng hạn. Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ chức kinh tế khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá mức độ uy tín của khách hàng.

Việc lựa chọn khách hàng phải thực hiện một cách chủ động (nghĩa là nếu biết đơn vị kinh tế nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì Công ty có thể chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với đơn vị đó). Công ty không nên ở thế bị động, ngồi


chờ khách đến gõ cửa xin vay, khi đó Công ty mới xem xét có cho khách hàng vay hay không. Việc lựa chọn khách hàng phải áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, tránh tình trạng đối với thành phần kinh tế quốc doanh, Công ty cứ cho vay mà không xem xét đơn vị đó kinh doanh có hiệu quả hay không hoặc khi cho các đơn vị trong ngành Bưu chính – Viễn Thông vay thì cũng phải chú ý đến vấn đề này

Để việc lựa chọn khách hàng được khoa học, Công ty nên tiến hành phân tích và xếp loại các doanh nghiệp theo bốn nhóm tiêu thức, quy mô doanh nghiệp, khả năng thanh toán, quan hệ tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Cụ thể:

Quy mô doanh nghiệp được chia làm ba loại: Doanh nghiệp có quy mô lớn, vừa và nhỏ, dựa trên các tiêu thức mức vốn điều lệ, số nhân viên, doanh số hoạt động.

Đánh giá khả năng thanh toán phân thành ba loại: Doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, trung bình, kém. Dựa trên các cơ sở tính toán, phân tích khả năng tài chính doanh nghiệp, báo cáo chu chuyển tiền tệ.

Đánh giá về quan hệ tín dụng của doanh nghiệp được phân tích thành 05 loại: A, B, C, D, O. Trong đó: Có bốn loại A, B, C, D được xếp loại khoản vay tương ứng nhóm A có dư nợ tốt (Khoản vay trong hạn có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn). Nhóm B có dư nợ có vấn đề gồm các khoản nợ quá hạn 180 ngày; Nhóm C là nhóm dư nợ tồi gồm các khoản nợ quá hạn trong 180 ­ 360 ngày; Nhóm D là nhóm dư nợ rất tồi, các khoản nợ rất tồi, các khoản nợ quá hạn > 360 ngày; Nhóm O là doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng.

Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh được phân chia thành hai loại: doanh nghiệp kinh doanh lỗ và doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận, dựa trên các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ để đánh giá.

Ngoài ra, Công ty có thế tiến hành xếp loại người lãnh đạo quản lý, điều hành doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Việc xếp loại này dựa trên tiêu thức kỹ năng và kinh nghiệm của các nhà quản lý.

Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia những các bộ tư vấn về lĩnh vực như giá cả, kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm.


Dải ngân


ở rộng quan hệ tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp trong ngành, tích cực tìm kiếm các đơn vị cần vốn trong ngành, đồng thời mở rộng phạm vi hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp bên ngoài VNT và cho vay tiêu dung.

Ngành Bưu chính – Viễn thong là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh và sôi động nhất trong những năm qua. Hiện có rất nhiều doanh nghiệp đang tham gia hoạt động trong cả hai lĩnh vực. Vào năm 2008, Sau khi chia tác Bưu chính – Viễn thong sự phân hóa rõ nét trong phát triển đã được thấy rõ. Trong khi viễn thong vẫn là một khu vực phát triển mạnh mẽ do nhu cầu thong tin lien lạc và giải trí của người dân càng tay thì các doanh nghiệp bưu chính lại phải tiến hành thay đổi, tái tổ chức lại để có thể thích ứng với tình hình trước khó khan trước mắt khi không được nhà nước hỗ trợ và phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Với quy mô về số lượng của các doanh nghiệp hoạt động trên cả hai lĩnh vực rất lớn, lên đến hàng ngàn doanh nghiệp việc thực hiện vai trò là đầu mối huy động vốn cho cả 2 ngành có vẻ chưa thực sự phù hợp với PTF. Tuy nhiên, việc hỗ trợ đối với một số doanh nghiệp về vốn ngắn hạn và trung hạn là điều thực sự có thể. Để làm được điều này, trước hết PTF phải tang cường hình ảnh của mình tới các doanh nghiệp trong và ngoài ngành bưu chính viễn thong. Cụ thể đó là tiến hành các hoạt động marketing, truyền thong rộng rãi tới các doanh nghiệp trong và ngoài ngành, nâng cấp website, cung cấp các thong tin về sản phẩm cụ thể tới khách hang, tổ chức hướng dẫn tư vấn miễn phí hoạt động sử dụng vốn thế nào cho hiệu quả. Thứ hai, PTF cần phải xúc tiến mở rộng tìm hiểu đối với các doanh nghiệp trong ngành, chủ động tìm kiếm khách hàng, chú trọng vào các khoản đầu tư phát triển của lĩnh vực viễn thong và các nhu cầu phát triển bưu chính hợp lý đồng thời đó là chủ động tận dụng các mối quan hệ sẵn có đối với một số đơn vị như PTI – Bảo Hiểm Bưu Điện ( 2 doanh nghiệp đã cùng kí thỏa thuận hợp tác vào 30/11/2007) để có thể tạo ra cơ chế hợp tác cùng chia sẻ và được tư vấn quản lý trong một số bộ phận mà PTF làm chưa tốt. Thêm nữa, các mối quan hệ này cũng tạo điều kiện cho PTF tiếp xúc gián tiếp với các doanh nghiệp khác trong ngành để có thể có được thong tin về nhu cầu vốn lưu động, vốn để đầu tư phát triển. Theo

Xem tất cả 82 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí